Thứ Sáu, 28 tháng 10, 2016

Ứng Dụng Tâm Lý Học Trong Mục Vụ


ỨNG DỤNG TÂM LÝ HỌC TRONG MỤC VỤ

Suy tư từ bộ phim "The Passion of The Christ" của Mel Gibson
Ngay từ trước khi khởi chiếu chính thức, bộ phim "cuộc thương khó của Chúa" đã trở thành một đề tài tranh luận nóng bỏng trên thế giới. Và, không chỉ là tranh luận, khi bộ phim được trình chiếu, nó đã trở thành một "hiện tượng kỳ diệu" cho mọi người sống mùa chay thánh năm nay.

     Bộ phim đã thành công vượt sức tưởng tượng của đạo diễn về nhiều mặt từ kinh tế đến tâm linh. 
Đã có không ít bài viết, từ phê bình, phân tích. . . . đến cảm nghiệm về bộ phim này. Riêng tôi, một linh mục đang làm mục vụ giáo xứ, khi xem bộ phim này cùng giáo dân, tôi chợt nhận ra nơi đạo diễn một tài năng về sự ứng dụng những kiến thức tâm lý học vào trong bộ phim. Theo tôi, chính khả năng này đã góp phần không nhỏ cho sự thành công cho bộ phim. 
Với chút ít kiến thức tâm lý học, xin được góp đôi dòng suy nghĩ cùng với quý cha, quý tu sỹ nam nữ về việc ứng dụng tâm lý học vào trong mục vụ, xuyên qua việc phân tích bộ phim này. 
***
1. Điều thành công trước tiên phải nói tới chính là số lượng khán giả xem phim. Con số vượt quá sự mong đợi của chính đạo diễn - người đã bỏ tiền đầu tư cho bộ phim. Ai đã quảng cáo cho bộ phim này? Đìều này không quan trọng lắm. Có một điều chắc chắn, lối quảng cáo theo kiểu của bộ phim đã thu hút khán giả đến xem phim đông hơn: một phim bài Do thái, một bộ phim quá bạo lực. . . Chúng ta không cần xét đến động cơ của khán giả. Một điều không thể phủ nhận: nhiều người đến xem đã bị "quật ngã" bởi bộ phim. Quả là người quảng cáo cho bộ phim đã đánh vào trúng tâm lý của con người thời đại hôm nay. Đồng thời, quy luật lây lan tâm lý mang tính xã hội, trong trường hợp này, cũng thể hiện rất rõ. 
Chính điều này gợi lên cho tôi về những chương trình sinh hoạt buồn tẻ, vắng ngắt của giáo xứ mình và nhiều giáo xứ tôi đã có dịp ghé thăm. Đâu là lý do khiến tình trạng này vẫn kéo dài ở nhiều nơi? Có cần thiết chăng một thứ "quảng cáo" cho những chương trình sinh hoạt của giáo xứ? Cần và có thể nói là rất cần. 
Việc phổ biến những chương trình sinh hoạt của giáo xứ ở nhiều nơi vẫn bị nhiều người-- đặc biệt giới trẻ--coi là nặng chuyện "xin tiền". Vì thế, chuyện lắng nghe những thông tin sinh hoạt không đủ sức tác động đến tâm lý họ. Đàng khác, nếu có một sự lây lan tâm lý ở đây, có lẽ cũng chỉ là sự lây lan mang âm tính. 
Cần phải có một quy trình "quảng cáo" khác trong mục vụ: một tờ bướm được trang trí đẹpï, hấp dẫn được chuyển tới mọi người; một thư mời với những gợi ý đáp ứng cho những nhu cầu của cộng đoàn; một bảng thông tin đẹp, lôi cuốn;. . . kể cả tên tuổi của những "nhân vật quan trọng" được mời tham dự, trình bày, . . . nữa. 
2. Điều thành công, như đã nói ở trên, mới chỉ là sự thành công ở bước khởi đầu. Giá trị thành công của bộ phim, như chúng ta đã biết, nằm ở chính việc cấu kết nội dung và kỹ thuật của phim. 
Xem phim - nói theo từ ngữ chuyên môn - là tri giác hình ảnh. Tiến trình tri giác này tùy thuộc rất nhiều vào cách xử lý hình ảnh. Tri giác bao giờ cũng chịu những ảnh hưởng nhất định của những quy luật tâm lý của tri giác như: tính ổn định, tính đối tượng, tính lựa chọn và tính ý nghĩa của nó. Bên cạnh đó, kết quả của tri giác phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tính chất kích thích, kinh nghiệm trong quá khứ, nhu cầu hiện tại, ảnh hưởng của tình cảm, mức độ của chú ý, tình trạng cơ thể, kết quả luyện tập của người tri giác. 
Quy luật hình-nền, trong tâm lý học Gestal, thường được các nhà làm phim áp dụng để đạt hiệu quả. Xét trong toàn thể, Mel Gibson cũng không thể vượt ra khỏi cái chung đó. Thế nhưng, với M. Gibson, anh đã ứng dụng một cách tài tình quy luật hình-nền trong tâm lý học Gestal để tạo nên những góc quay gây ấn tượng. Theo quy luật này, sự tương phản giữa hình ảnh và nền sẽ tạo cho ta sự khác biệt trong tri giác. Chẳng hạn, ngay từ cảnh đầu tiên, trong vườn địa đàng, lúc quay Chúa Giêsu đang cầu nguyện với một tâm trạng quá đau đớn, đạo diễn chỉ quay cảnh xa xa. Chính trong khung cảnh mở rộng của vườn cây dầu mà ta có cảm giác Chúa Giêsu thật quá nhỏ bé. Điều này đã gây ra cho người xem cảm giác về thân phận con người Chúa đang mang lấy. Trái lại, khi đối diện với ma quỷ và với quân lính, hình ảnh Chúa Giêsu luôn được quay cận cảnh - trong khi các nhóm đối nghịch vẫn quay ở góc xa - làm cho người xem cảm giác sự uy nghi của Chúa Giêsu khi đối đầu với sự dữ. Tương tự, những cảnh ở dinh thượng tế cũng cũng một lối quay diễn tả như thế tạo nên cho người xem hình ảnh một Đức Giêsu thật uy nghi trước một đám đông - đang tố cáo Ngài - lại thật nhỏ bé. . . Và còn rất nhiều những hình ảnh khác tương tự - ở nhiều vị trí, trải dài suốt bộ phim - đã được đạo diễn dàn dựng theo quy luật này gây ra cho người xem những cảm xúc mạnh. 
Phần chúng ta, trong mục vụ, những quy luật này cũng có thể được ứng dụng ở nhiều lĩnh vực: giảng dạy giáo lý, những giờ đạo đức, phòng truyền thống giáo xứ, việc trưng bày và trang trí bàn thờ, nhà thờ. . . . 
Chẳng hạn, có những nhà thờ, khi đến tham dự, chúng ta luôn luôn có cảm giác hút vào chiều sâu và độ cao của nhà thờ, khiến cho mình có cảm giác chơi vơi, lâng lâng trong nhà Chúa. Họ như bắt gặp thấy Ngài đang ở đó và cuốn hút họ, chẳng cần đến một lời loan báo, giảng dạy nào cả. Nhưng trái lại, có những nhà thờ, khi vào đó, ta cứ có cảm giác như đang bị đè nặng xuống trên mình của của một khối bêtông trần, và như đang bị đẩy lùi ra ngoài cửa. Theo tôi, chỉ cần một sự thay đổi vị trí các bóng đèn, người ta sẽ có được hiệu quả cao theo kiểu định luật này. . . 
3. Tri giác và cảm giác là hai hiện tượng tâm lý xảy ra gần như đồng thời với nhau trong đời sống con người. Vì thế, các quy luật của cảm giác cũng có những ảnh hưởng nhất định cùng với việc tri giác tạo nên cảm xúc cho con người. Trong bộ phim này, các quy luật tâm lý của cảm giác cũng đã được đạo diễn khai thác thật tuyệt vời. Chính việc khai thác này đã làm cho người xem phim đạt tới đỉnh cao của những cảm xúc đối với cuộc thương khó của Chúa. 
Một trong những quy luật đã được M. Gibson chú ý nhiều đó là quy luật về ngưỡng cảm giác. Anh đã dùng âm nhạc theo nhiều kiểu để làm nền cho bộ phim. Rất nhiều chỗ nhạc nền đã được sử dụng vượt ngưỡng cách bất ngờ gây nên những cảm giác khác nhau nơi người xem. Không chỉ là nhạc nền, những tiếng ồn ào la hét của đám đông; sự lặng lẽ của mẹ Maria, của Gioan và cả ánh mắt của các nhân vật cũng gây nên những cảm giác thật mãnh liệt để dẫn đến những cảm xúc đỉnh cao nơi người xem. 
Ánh sáng trong bộ phim cũng được sử dụng theo kiểu như thế. Chúng ta không được xem phim gốc để có thể định dạng màu sắc của ánh sáng này một cách chính xác. Tuy thế, những thay đổi màu sắc nơi những khuôn mặt của các nhân vật không thể không gây nên nơi người xem những cảm giác khác nhau. 
Ngay cả nhịp độ khác nhau của những cảnh quay cũng được đạo diễn thực hiện theo những quy luật của cảm giác. Có những cảnh quay tưởng chừng phải vượt qua mau, nhưng lại được kéo dài quá mức cần thiết như cảnh đánh đòn. Với những bộ phim khác, việc thực hiện kiểu này dễ tạo nên sự buồn chán cho khán giả, nhưng sự "vượt ngưỡng" này khiến cho không ít người xem đã đạt đến đỉnh của cảm xúc. 
Chính điều này đã làm tôi suy nghĩ về những cử hành phụng vụ, nhất là những cử hành phụng vụ trong tam nhật vượt qua. Những quy luật phụng vụ theo đúng chữ đỏ không đơn thuần là kỷ luật chung về phụng vụ mà còn là những chỉ dẫn để làm nổi bật ý nghĩa của cử hành. Thế nhưng, dường như việc cử hành những việc đạo đức nơi nhiều giáo xứ trong những ngày này, không chỉ là vi phạm kỷ luật mà còn phá vỡ cả ý nghĩa của cử hành nữa. Theo tôi, xét dưới góc độ tâm lý, dường như những vi phạm này đã phá hỏng cả đỉnh cao của phụng vụ: đêm vọng phục sinh. Việc quá tập trung kéo dài những việc đạo đức có vẻ "tang chế" không có khoảng thinh lặng cần thiết của ngày thứ bảy đã không đủ sức để tạo nên một cảm giác mới của đêm vọng phục sinh. Bởi lẽ những cử hành của những ngày trước đã "vượt ngưỡng" và người tham dự đã chuyển sang trạng thái chịu chi phối bởi quy luật "thích ứng cảm giác". Phải chăng đây cũng chính là tâm lý của Maria Madalena - vì chỉ mãi sống trong tâm trạng của sự chết chóc mà không đủ sức khám phá ra sự phục sinh?
Việc sử dụng ánh sáng, âm thanh. . . trong những cử hành phụng vụ, những giờ sinh hoạt đạo đức, suy niệm. . . hiện nay cũng đang ít được chúng ta chú ý. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta chưa tậân dụng hết những điều kiện có thể để tạo nên những cảm giác mới lạ trong đời sống đạo đức cho những người tham dự. Nếu ai đó đã có một lần đến tham dự những ngày đại hội giới trẻ, chúng ta cũng sẽ dễ cảm nhận được: đèn pin xanh đỏ nhấp nháy thật đẹp mắt, nhưng để làm gì nếu như nó không tạo nên được một cảm xúc, một tâm tình đạo đức cho chính những người tham dự. Trái lại, ai đã có một lần lặng im bên linh đài mẹ Lavang giữa trời đêm, không thể không trào lên những cảm xúc kỳ diệu từ những ánh nến bập bùng. . . 
4. Một kỹ thuật khác không thể không nói đến như một sự thành công của bộ phim đó là sự liên tưởng, nhớ lại của các nhân vật. Điều này đã được tác giả thực hiện một cách khác thường so với những bộ phim chúng ta đã có dịp thưởng thức. Thông thường khi làm thực hiện những cảnh quay liên tưởng này, tác giả bao giờ cũng làm thay đổi màu sắc của hình ảnh để tạo nên sự cũ kỹ - hình ảnh trong quá khứ. Nhưng với M. Gibson, tất cả đều được đặt ở "tông màu" thì hiện tại. 
Chính kỹ thuật này đã làm cho người xem có tâm tình cùng với nhân vật. Cùng với Maria Mad. , tôi đang cảm nghiệm được lời tha thứ ngay chính khi tôi đang kết án Ngài; cùng với Gioan, tôi đang cảm nghiệm những giọt máu Ngài đổ ra trên thập giá đang vẫn tiếp tục trong hy lễ Thánh Thể hôm nay và tấâm thân Ngài nát tan vì tội của tôi lại đang là của ăn mỗi ngày cho tôi. . . . 
Phần chúng ta, cử hành phụng vụ là việc "hiện tại hóa mầu nhiệm của Chúa Kitô". Lẽ dĩ nhiên, đây là công cuộc của Chúa Thánh Thần trên những người tham dự cử hành. Bởi lẽ, khi cử hành, thừa tác viên không cử hành nhân danh mình nhưng nhân chính chính Đức kitô là Đầu. Tuy thế, chúng ta cũng có thể góp phần vào đó trong cung cách cử hành của mình. Nhưng liệu chúng ta, trong khi cử hành, thái độ của chúng ta có hình thành nơi người tham dự những hiện tượng tâm lý như: ký ức, liên tưởng, nhớ lại, . . . để có thể cảm nghiệm được "hy lễ hiện tại" họ cũng đang được tham dự với Chúa Kitô. Những cử hành theo những nhịp độ quá mau sẽ khó tạo nên được những cảm xúc khởi đi từ những hiện tượng này. 
Những kiểu trang trí bàn thờ, phông lễ đài, âm nhạc, bài suy niệm. . . cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo nên những liên tưởng. 
***
Mel Gibson là một nhà tâm lý? Chắc chắn không. Anh là một nhà đạo diễn kinh nghiệm? Điều này cũng hoàn toàn không. Anh đã có một khởi đầu với sự nghiệp điện ảnh không sáng sủa mấy: rớt đại học nhiếp ảnh, trở thành diễn viên không chuyên, phấn đấu thành diễn viên xuất sắc và nay anh là đạo diễn. 
Xét cho cùng, cả hai lĩnh vực: tâm lý và đạo diễn, anh đều là người không chuyên. 
Việc hoàn thành bộ phim không phải là công lao của mình đạo diễn. Người quay phim, các diễn viên, đạo cụ. . . cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo nên sự thành công này. Phải chăng họ là những người tài năng? Ngọai trừ Monica Belluci trong vai Maria Madalena và Maia Morgenstern trong vai mẹ Maria, các diễn viên khác cũng chỉ là những diễn viên ít tên tuổi. Ngay cả diễn viên chính của bộ phim, Jim Caviezel cũng không phải là một diễn viên xuất sắc lắm trước khi tham gia bộ phim này. Đâu là điều đã giúp anh thành công? 
Có thể giải thích điều này bằng cấu trúc hoạt động của nhà tâm lý học họat động A. N. Léontiev- một trường phái tâm lý không "mặn mà" lắm với "con nhà đạo" - như sau:
Theo Léontiev, cuộc sống con người là một dòng liên tục các hoạt động khác nhau, nối tiếp khác nhau. Mỗi hoạt động của con người đều có cấu trúc cụ thể: một bên là hoạt động bao trùm. Dưới nó là các hành động và cuối cùng là các thao tác. Bên kia, họat động bao giờ cũng gắn với động cơ. Hành động bao giờ cũng gắn với mục đích và thao tác luôn luôn phụ thuộc vào điều kiện. 
Mel Gibson đã hoàn thành bộ phim khởi đi từ một động cơ, một mục đích quá rõ ràng: "bộ phim của tôi nói về đức tin, đức cậy, đức mến và tha thứ. Đó là nội dung của bộ phim bộ phim nói về cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. . . bộ phim không nhằm tố cáo, không nhắm quy trách nhiệm cho ai là kẻ đã giết Chúa Giêsu. . . tôi muốn làm cho khán giả hiểu được rằng có một người đã chịu đựng được những hành hạ đến tận cùng như thế, mà vẫn còn có thể yêu thương và tha thứ. . ." (CNA 16/2/2004). Chính điều đó đã thúc đẩy M. Gibson suy tư, tìm tòi khám phá và thể hiện. . . và anh đã thành công với sự trợ giúp của các nhà quay phim, diễn viên. Nói cách khác, anh đã thành công từ chính con tim đã cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho mình và cảm thấy cần phải có trách nhiệm loan báo tình yêu ấy bằng khả năng của mình. Anh đã hoàn thành công trình của mình bằng con tim yêu thương. 
Phần chúng ta, chúng ta không phải là những nhà tâm lý. Nhưng chắc chắn kiến thức tâm lý học của chúng ta cũng không thể kém hơn M. Gibson. Chúng ta là linh mục, là tu sĩ nam nữ, . . . chúng ta hơn hẳn M. Gibson về động cơ thúc đẩy, mục đích hoạt động cho sứ vụ loan báo tin mừng (?). Chúng ta đang sống trong một xã hội có nhiều điều kiện để thi hành sứ vụ. 
Công việc mục vụ của chúng ta ngày đang được mở rộng ở nhiều lĩnh vực. Việc ứng dụng những kiến thức tâm lý học như là một sự cộng tác với ơn Chúa bằng khả năng của mình luôn là điều cần thiết. Nhưng ứng dụng như thế nào? Lẽ dĩ nhiên, câu trả lời sẽ của các nhà chuyên môn. Vấn đề còn đặt ra cho chúng ta: tại sao tôi vẫn chưa có thể làm được điều gì đó cho Ngài và cho anh em tôi? Câu trả lời vẫn còn tùy thuộc vào từng mỗi người trong chúng ta. Mong thay!


Mùa phục sinh 2004

Lm. Giuse Têrêsa Trần Anh Thụ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CON CẦN CHÚA

  Một cậu bé đang đùa nghịch với đống cát trên sân. Nhìn thấy một tảng đá lớn choán chỗ phía trước, cậu liền tìm cách đẩy tảng đá đi chỗ kh...