Thứ Sáu, 17 tháng 11, 2017

Tháng Mười Một...!


Tháng mười một đôi lời ta nhắn gửi
Đến người thương giờ an giấc trong mồ
Lời kinh đơn sơ, lời kinh cứu độ
Lời kinh âm thầm, hồi cố tri âm.

Thứ Ba, 10 tháng 10, 2017

Cội nguồn chìm nổi của ơn huệ


Thiên Chúa viết lịch sử ơn cứu độ bằng những đường khúc khuỷu. Mặc dù biết như vậy nhưng hiếm khi chúng ta thử áp dụng nó vào tiến trình lịch sử thiêng liêng của Giáo Hội hay vào sự kiện Chúa Giêsu Kitô ra đời. Câu chuyện Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Sinh làm người cũng được viết bằng những dòng khá khúc khuỷu.
Linh Mục Raymond Brown, một học giả Thánh Kinh nổi tiếng đã chú giải sâu sắc một đoạn trong Tin Mừng của thánh Mát-thêu về gốc gác Đức Giêsu mà chúng ta ít khi lưu ý đến, đoạn kể về gia phả của Đức Giêsu từ thời tổ phụ Áp-ra-ham đến thời Đức Maria. Cha Brown chú giải các điều Mát-thêu kể trong gia phả Đức Giêsu như một câu chuyện ba chìm bảy nổi. Họ hàng Đức Giêsu có số những người tội lỗi nhiều ngang với số các vị thánh. Gốc gác của Ngài bắt nguồn trong dòng đời khúc khuỷu của lịch sử, cũng gồm những kẻ nói láo, phụ bạc, ngoại tình, và sát nhân. Đức Giêsu trong sạch, nhưng dòng dõi của Ngài không được như thế.
Mát-thêu mở đầu câu chuyện về gốc gác của Đức Giêsu với tổ phụ Áp-ra-ham, cha của I-xa-ác, sau này chính ông đã đuổi một người con khác của mình là Ít-ma-el cùng với mẹ vào sa mạc. Chúng ta không tưởng tượng một tổ phụ vĩ đại lại làm như vậy. Làm sao có thể gọi đó là công bằng, công lý được nữa?
Tiếp theo thánh Mát-thêu kể về việc ông Gia-cóp giành lấy phúc lành của người anh cả khi lừa gạt cha để cha trao quyền trưởng nam cho mình. Cũng như dân Do thái chiếm đất Ca-na-an từ tay một dân tộc được quyền ưu tiên trước. Tiếp đó, trong số những người con trai của Gia-cóp, Giu-se rõ ràng là người xứng đáng nhất, nhưng ông lại không phải là người được chọn. Giu-Đa vì đố kỵ đã bán em cho dân buôn nô lệ, sau đó làm cho con dâu của mình có thai, khiến cô ấy trở thành gái điếm, thế mà ông lại là người được chọn. Công bằng nào với Giu-đa?
Tiếp theo Mát-thêu liệt kê danh sách mười bốn vị vua nối tiếp nhau trong gia phả Đức Giêsu. Trong đó, theo Sách Các Vì Vua, chỉ có hai người là En-gia-kim và Giô-si-gia được xem là hoàn toàn trung kiên với Thiên Chúa. Phần còn lại, theo cha Brown, họ đều là những vị vua “ngoại tình, sát nhân, bất tài, tiếm quyền, biếng nhác việc triều chính.”
Sau đó Mát-thêu kể về vua Đa-vít, vị vua vĩ đại trong lịch sử, người được tất cả các cuốn Kinh Thánh tự hào tuyên bố là dòng dõi xuất thân của Đức Giêsu. Phải thừa nhận rằng, Đa-vít là một con người vĩ đại cả về nhân phẩm và tâm linh, ông đã hợp nhất nhân dân, xây dựng đền thờ, viết thánh vịnh, tuy nhiên ông cũng phạm tội ngoại tình và che giấu tội lỗi bằng hành động giết người.
Cuối cùng là danh sách các phụ nữ có ý nghĩa đặc biệt trong dòng dõi gốc gác Đức Giêsu. Thay vì nêu tên bà Sa-ra, Rê-bê-ca, và Ra-khen, thánh Mát-thêu nêu tên Ta-ma, Ra-kháp, Rút và Bát-se-va trước và cuối cùng mới đến Maria, mẹ Đức Giêsu.
Một chọn lựa gây hiếu kì: Ta-ma là một phụ nữ vùng Ca-na-an, lần lượt lấy hai người con trai của Giu-đa nhưng cả hai đều chết mà không để lại người con nào, cô cải trang thành gái điếm và đã quyến rũ Giu-đa.
Ra-kháp là một cô gái điếm thật sự, nhưng lòng tốt của cô đã bảo vệ cho mật thám của Dân Ít-ra-el suốt thời gian họ chinh phục vùng đất hứa.
Cũng như Ta-ma, bà Rút là dân ngoại. Bát-se-va như chúng ta biết là người phụ nữ vua Đa-vít đã quyến rũ, sau đó ông giết người chồng của cô. Mặc dầu vậy, vụ việc tai tiếng và cái chết của đứa con ngoài giá thú với vua Đa-vít đã không ngăn bà lập mưu để bảo đảm chắc chắn một trong số con trai của mình sẽ thừa kế ngai vàng.
Ai trong số các phụ nữ này cũng có những vấn đề về hôn nhân, chứa đựng các yếu tố trái với lề luật hoặc tai tiếng, do đó họ chưa đủ khả năng mang sứ mệnh sinh hạ con Thiên Chúa ở thế gian này. Rõ ràng Mát-thêu đã làm nổi bật tên của họ để chuẩn bị cho Đức Maria, một người cũng đã có thai không giống với lề luật thông thường, bởi vì cha của Đức Giêsu không thuộc về thế gian này.
Phần cuối cùng trong gia phả Đức Giêsu hầu hết là tên của những người không được biết đến, những người vô danh. Điều đó rất quan trọng bởi vì nếu những người không tên tuổi đã đóng góp một cách có ý nghĩa vào dòng dõi của Đức Giêsu như vậy, thì chúng ta cũng không đến nỗi quá tầm thường, không quan trọng hay vô danh tới mức không thể góp phần làm cho tiến trình lịch sử đó được tiếp diễn.
Thiên Chúa viết lịch sử bằng những dòng khúc khuỷu. Không đâu nói về điều này rõ bằng đoạn kể việc Chúa Giêsu ra đời. Có một thử thách đầy ý nghĩa trong đó. Xin trích dẫn lời cha Raymond Brown: Nếu việc mở đầu câu chuyện liên quan đến số người tội lỗi nhiều ngang với số các vị thánh, nên đã có trình tự Thiên Chúa viết phần mở đầu với những dòng khúc khuỷu, thì Ngài cũng viết phần tiếp theo với những dòng khúc khuỷu, và một vài dòng trong số đó chính là cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa đã không do dự khi viết về âm mưu tính toán cũng như viết về sự cao cả, sự ô uế, sự trong sạch, những người đàn ông khiến thế gian phải lắng nghe và những phụ nữ làm cho thế gian phải cau mày. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện công trình của Ngài với sự hòa hợp đó.
Có lẽ thử thách thực sự trong tất cả điều này xuất phát từ chúng ta, những người chỉ muốn chấp nhận một chân dung lý tưởng duy nhất về công cuộc Giáng Thế làm người của Ngôi Hai Thiên Chúa, những người chỉ muốn lịch sử viết bằng đường thẳng, không nhuốm bất kỳ một dơ bẩn, tì vết nào, không có những mảng màu tối.
Tuy nhiên chúng ta cũng đang cố gắng để thấu triệt điều đó, thật là quan trọng để chúng ta làm như vậy, bởi vì những gì được nhấn mạnh bởi các sách Phúc Âm về cuộc Giáng Thế làm người của Đức Giêsu sẽ soi rọi ánh sáng cho tất cả mọi thời kỳ lịch sử của Giáo Hội và cho chính cuộc đời của chúng ta.
Ơn huệ đầy tinh khiết, trong lành, nhưng chúng ta người đón nhận ơn huệ thường không được như vậy. Tình yêu và kế hoạch của Thiên Chúa vẫn không thay đổi vì bất tín, tội lỗi và toan tính của chúng ta. Kế hoạch của Thiên Chúa với ơn huệ bằng cách này hay cách khác vẫn hoạt động, và điều này cũng là điều cha Raymond Brown đã chỉ ra, đó không phải là một bài học làm chúng ta nản lòng, nhưng là một bài học khích lệ.
Ronald Rolheiser, 2008-12-07
J.B. Thái Hòa dịch 

Đưa nỗi cô đơn của mình lên tầm mức cao hơn


Trong quyển tiểu thuyết tự truyện, Các Mối Tình Đầu Của Tôi, văn sĩ Tiệp Ivan Klima chia sẻ tâm tư người đàn ông trẻ chiến đấu với tình trạng khó xử đặc biệt của mình. Một mặt, anh muốn được tự do như các bạn, thoải mái về tình dục, một mặt, có phần nào đó trong con người anh muốn cự lại chuyện này. Nó làm cho anh đặt câu hỏi: Sự ngần ngại của anh là do tính rụt rè không lành mạnh hay do một ước muốn thanh cao, muốn đưa nỗi cô đơn của mình lên tầm mức cao hơn. Cuối cùng, anh lựa chọn quyết định thứ nhì.
Đưa nỗi cô đơn của mình lên mức cao hơn là chuyện không dễ để làm, đặc biệt trong nền văn hóa chúng ta, khi tất cả mọi chuyện như muốn mời gọi chúng ta đi con đường thoải mái. Giống như xã hội Ivan Klima dựng lên, xã hội này mời gọi chúng ta đi con đường ngược lại, con đường có nhiều người đi. Ngay cả ở những người có lòng tin, ý tưởng thường thấy là nếu cái giá quá cao thì không đáng để kiên định, không đáng để duy trì một lý tưởng cao. Nền văn hóa chúng ta còn đề nghị: Thà hạ tiêu chuẩn xuống còn hơn sống trong đau khổ. Thà để tâm hồn chịu nhục còn hơn chịu cô quạnh. Thà bán rẻ bản thân mình còn hơn ở một mình.
Vừa rồi có một nữ độc giả viết thư cho tôi, kể nổi bực tức  khi bà biết các bạn trong giáo xứ không nâng đỡ để bà sống một lý tưởng cao hơn. Bà viết như sau: “Tôi góa chồng bảy năm nay, tôi sống trong buồn tủi và cô đơn. Tôi nhớ lại khi chồng tôi mới chết, các người bạn thân có đạo nói với tôi: “Bạn sẽ lấy chồng lại sớm thôi.” “Tại sao làm đám cưới, chỉ cần sống với nhau thôi.” “Tại sao sống với một người, chỉ cần ngủ qua đêm tối thứ bảy thôi.” Thái độ này rất thường thấy ở lứa tuổi của tôi. Tôi chưa bao giờ đọc các bài viết thiêng liêng về chuyện này. Cha có một số lượng độc giả lớn. Cha có thể viết được không?”
Thư của bà tiếp tục giải thích rõ về điểm này: « Có rất nhiều điều kỳ thú, tuyệt vời mà những người góa chồng góa vợ có thể đóng góp cho xã hội mà hiện nay họ chưa làm được. Thế giới này cổ võ cho hiệu năng và ngoại hình đẹp, dùng phương tiện y khoa để trị rối loạn tình dục, có sở thích du lịch điệu đà, nhà cao cửa rộng, luôn luôn trẻ, luôn luôn đẹp, luôn luôn có đôi có cặp, làm đủ cách để chống già, lột da, hút mỡ, vv. Chúng ta cần một tiếng nói khác! Nơi đó, chúng ta sẽ được nghe tiếng nói nói niềm vui làm lại một cuộc sống cao đẹp hơn cuộc sống chúng ta, đi vào mảnh đất khô cằn của các tâm hồn, thể xác đã bị tan vỡ, để tinh thần rốt cuộc có thể tung cánh bay tự do, không vướng bận, bởi những vết nứt, vết nhăn.
Có thể đó không phải vì chúng ta mất lý tưởng, mà tuyệt vọng vì điều đó đến với chúng ta. Cuối cùng, tất cả chúng ta đều muốn giữ một phẩm cách cho tâm hồn, luôn muốn tìm  gặp một ai đó và để vinh danh chúng ta, với tất cả lòng tôn kính con người thật của mình. Nhưng, như một ký giả vừa viết một quyển sách về chay tịnh gần đây, ông nói lý tưởng này chỉ có ý nghĩa khi chúng ta còn trẻ và luôn luôn mơ người mình mong chờ, hơn là bây giờ đang ở tuổi ngoài bốn mươi và đã từ lâu không còn hy vọng một cái gì tốt hơn sẽ đến với mình. Bà nói nền văn hóa của chúng ta tin, như các loại bài hát phổ thông hay hát, thà bị tình phụ còn hơn không bao giờ có tình yêu. Nhưng như nữ văn sĩ Doris Lessing đã từng nói: Chỉ có một tội duy nhất hơn bất cứ một tội nào khác, đó là tôi bằng lòng cái… tốt thứ nhì!
Rất nhiều người ở trong trận chiến này. Và đây là một bà góa khác viết: "Với một tấm lòng tôn kính sâu xa và danh dự mà chúng ta phải kêu gọi đến lòng can đảm để tránh xa bất cứ cái gì không để lại âm vang về một sự thật rằng chúng ta đã chiến đấu để tự mình hiểu được những con đường sâu thẳm nhất. Và nếu cuối cùng, chúng ta vẫn ở một mình trước sự hiện diện của Chúa thì đó là con đường mà chúng ta luôn luôn phải đi tới. Nói cách khác, tôi tự đặt ra các giới hạn cho mình, và đó là nỗi cô đơn rất lớn!"
Đó là lời mô tả chính xác tâm trạng của Chúa Giêsu trong vườn Giệt-sê-ma-ni. Trong đoạn mô tả sự Thương Khó của Chúa Giêsu, các thánh sử không bao giờ ngừng lại ở đau đớn thể xác (đánh đòn, đóng đinh) nhưng trọng tâm là nỗi cô đơn về mặt tinh thần, cô đơn tận cùng, cái gọi là "đồng nhất trừ một". Người từ chối đi ngược lại và đó là món quà to lớn cho chúng ta. Người đã trả giá trong máu và trong cô đơn, để đi vào mảnh đất khô cằn của các tâm hồn, thể xác đã bị tan vỡ để mang cô đơn lên tầm mức cao hơn. Mặc cho đau đớn, sỉ nhục, cô đơn, Ngài không đi ngược lại lý tưởng của mình. Và Người ở trong nỗi cô đơn tận cùng.
Ở bên trong những gì tốt nhất tâm hồn, chúng ta nghe tiếng Người mời gọi: Sống trong đau khổ hơn là hạ thấp tiêu chuẩn của mình, thà chịu có thể bị cô đơn còn hơn đi ngược với con người mình, và thà cô đơn, cô quạnh, dù phải cô đơn tận cùng nhưng không được bán rẻ mình.
Ronald Rolheiser, 2009-01-18
J.B. Thái Hòa dịch

Thứ Sáu, 6 tháng 10, 2017

THƯ CỦA BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN GỞI CÁC GIÁM MỤC VỀ ĐỒNG TÍNH


THƯ CỦA BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN
GỞI CÁC GIÁM MỤC
VỀ ĐỒNG TÍNH
1. Vấn đề đồng tính luyến ái và việc lượng giá luân lý về các hành vi đồng tính đã ngày càng trở thành cuộc tranh luận công khai ngay cả trong các giới Công Giáo. Bởi vì cuộc tranh luận này thường triển khai các lý luận và có các tuyên bố không phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo, đó thật là một nguyên nhân gây lo lắng cho các người dấn thân trong sứ vụ mục vụ, và Bộ này đã nhận định sự việc khá trầm trọng và có tầm quan trọng rộng lan nên gửi Thư này cho các giám mục Giáo Hội Công Giáo về việc chăm sóc mục vụ cho người đồng tính luyến ái.
2. Một cách tự nhiên, Thư này không cố gắng xử lý thấu đáo vấn đề phức tạp này, nhưng chúng tôi sẽ tập trung sự suy tư bên trong bối cảnh đặc biệt của quan điểm luân lý Công Giáo. Đây là một quan điểm tìm kiếm sự ủng hộ từ các khám phá bảo đảm hơn của các khoa học tự nhiên, vốn có phương pháp học riêng và chính đáng, và có lãnh vực thẩm tra riêng của chúng.
Tuy nhiên, quan điểm luân lý Công Giáo đặt nền trên lý trí con người được soi sáng bởi đức tin, và được tác động một cách có ý thức bởi ước muốn thực thi ý Thiên Chúa là Cha chúng ta. Vì vậy Giáo Hội vừa học hỏi từ các khám phá khoa học, nhưng cũng vượt lên trên chân trời khoa học, và vững tin rằng cái nhìn toàn thể hơn của mình thực hiện công bằng lớn lao hơn đối với thực tại phong phú của con người, trong chiều kích thiêng liêng và thể lý, được Thiên Chúa tạo dựng, và kế thừa, do ân sủng, vào đời sống vĩnh cửu.
Chính là trong bối cảnh này, có thể thấy một cách rõ ràng rằng, hiện tượng đồng tính luyến ái, vốn là phức tạp, và với nhiều hậu quả cho xã hội và đời sống giáo hội, là một mục tiêu riêng cho việc chăm sóc mục vụ của Giáo Hội. Vấn đề này đòi hỏi các thừa tác viên của Giáo Hội nghiên cứu kỹ lưỡng, quan tâm chủ động và theo lời khuyên chân thật và quân bình về mặt thần học.
3. Việc xử lý rõ ràng vấn đề này đã được bàn đến trong tài liệu “Tuyên ngôn về một số vấn đề liên quan đến đạo đức tính dục” của Thánh Bộ ban hành ngày 29 tháng 12 năm 1975. Tài liệu đó đã nhấn mạnh bổn phận cố gắng hiểu biết tình trạng đồng tính luyến ái và lưu ý rằng tính lỗi phạm của với các hành vi đồng tính nên chỉ được phê phán với sự thận trọng. Đồng thời, Bộ chú ý sự phân biệt thông thường giữa tình trạng hay khuynh hướng đồng tính và các hành vi đồng tính cá nhân. Các hành vi này đã được mô tả như mất đi mục tiêu chính yếu và cần thiết, như là “rối loạn tự nội tại”, và không trường hợp nào có thể được tán thành (xem số 8. 4).
Tuy nhiên, trong thảo luận diễn ra tiếp sau sự ban hành Tuyên ngôn, người ta đã giải thích quá nhẹ về chính tình trạng đồng tính, có người còn đi xa đến mức cho nó là “vô thưởng vô phạt”, hay thậm chí là tốt. Mặc dù sự nghiêng chiều cách riêng của người đồng tính luyến ái không phải là một tội, nó là một khuynh hướng ít nhiều mạnh mẽ hướng về một sự xấu luân lý nội tại; và vì vậy sự nghiêng chiều tự nó phải được xem như là một rối loạn khách quan.
Vì vậy sự quan tâm đặc biệt và lưu tâm mục vụ nên hướng về những ai ở trong tình trạng này, e rằng họ sẽ đi đến chỗ tin rằng sống thể hiện khuynh hướng này trong các hành vi đồng tính luyến ái là một chọn lựa có thể chấp nhận được về mặt luân lý. Thực ra không được như vậy.
4. Một chiều kích chính yếu của chăm sóc mục vụ đích thật là việc nhận diện các nguyên nhân của sự lẫn lộn về giáo huấn của Giáo Hội. Một nguyên nhân là sự giải thích mới về Kinh Thánh, vốn tuyên bố nhiều cách khác nhau rằng Kinh Thánh không nói gì về chủ đề đồng tính luyến ái, hay một cách ngầm chấp nhận, hay tất cả các huấn thị luân lý của Kinh Thánh đều quá gắn liền với văn hóa thời đó đến nỗi chúng không còn có thể áp dụng cho đời sống hiện nay. Các quan điểm này sai lầm một cách trầm trọng và cần có sự chú ý riêng ở đây.
5. Thật đúng là văn chương Kinh Thánh phụ thuộc vào các thời kỳ khác nhau, trong đó Kinh Thánh được viết làm cho nó có các kiểu mẫu khác nhau về tư tưởng và diễn tả (Dei Verbum 12). Giáo Hội ngày nay rao giảng Tin Mừng cho một thế giới vốn khác nhau về nhiều phương diện so với ngày xưa. Nhưng, ví dụ, thế giới trong đó Tân Ước được viết đã rất khác với hoàn cảnh mà Kinh Thánh của dân Do Thái đã được viết hay tập hợp lại.
Điều nên chú ý là, trong sự hiện diện của sự đa dạng đáng kể như thế, nhưng lại có một sự hằng định rõ ràng trong chính Kinh Thánh về vấn đề luân lý của hành vi đồng tính. Giáo thuyết của Giáo Hội về vấn đề này vì vậy không phải dựa trên vài câu rời rạc dùng cho sự lý luận thần học dễ dàng, nhưng trên nền tảng vững chắc của một bằng chứng Kinh Thánh hằng định. Cộng đoàn đức tin ngày nay, trong sự kế tục không đứt đoạn với các cộng đoàn Do Thái và Kitô hữu mà bên trong đó Kinh Thánh cổ xưa đã được biên soạn, tiếp tục được nuôi dưỡng bởi cùng Kinh Thánh và bởi Thần Khí Chân Lý mà Kinh Thánh là Lời của Thần Khí đó. Một cách chính yếu, cần nhìn nhận rằng Kinh Thánh không được hiểu một cách chính xác khi chúng được giải thích theo một cách thức đối nghịch với Truyền Thống sống động của Giáo Hội. Một cách đúng đắn, việc giải thích Kinh Thánh phải hòa hợp một cách căn bản với Truyền Thống đó.
Công Đồng Vaticanô II trong Dei Verbum 10 nói đến điều trên như sau: “Vì vậy, rõ ràng rằng trong sự sắp xếp khôn ngoan tuyệt đỉnh của Thiên Chúa, Truyền thống thánh thiêng, Kinh Thánh, và Huấn Quyền của Giáo Hội đã nối kết và liên hệ chặt chẽ với nhau đến mức mỗi lãnh vực không thể đứng vững nếu không có hai lãnh vực kia. Làm việc cùng nhau, mỗi lãnh vực trong cách thức riêng của mình, dưới tác động của một Thánh Thần, tất cả chúng đóng góp một cách hiệu quả cho sự cứu rỗi các linh hồn.” Trong tinh thần đó, ở đây chúng tôi ước ao phác thảo ngắn gọn giáo huấn của Kinh Thánh.
6. Việc cung cấp một lược đồ cơ bản để hiểu biết toàn bộ thảo luận về đồng tính luyến ái là thần học tạo dựng, mà chúng ta tìm thấy trong Sáng Thế. Thiên Chúa, bằng sự khôn ngoan và yêu thương vô hạn, tạo dựng tất cả thực tại như là phản ánh sự thiện hảo của Người. Người tạo ra loài người, nam và nữ, theo hình ảnh của Người và giống như Người. Vì vậy, con người, là công trình của chính Thiên Chúa; và trong sự bổ sung cho nhau của phái tính, họ được mời gọi để phản ánh sự thống nhất bên trong của Đấng Tạo Hóa. Họ thực hiện điều này theo một cách thức đáng kinh ngạc bằng sự cộng tác với Thiên Chúa trong lưu truyền sự sống bằng sự trao ban chính mình cho nhau.
Trong Sáng Thế 3, chúng ta thấy rằng sự thật về con người là hình ảnh của Thiên Chúa đã bị lu mờ đi vì tội nguyên tổ. Theo đó, không tránh khỏi là sự đánh mất ý thức về đặc tính giao ước của sự hiệp nhất mà con người đã có với Thiên Chúa và với nhau. Thân xác con người vẫn duy trì “ý nghĩa vợ chồng” ban đầu của nó nhưng nay bị che mờ vì tội. Vì thế, trong Sáng Thế 19, 1-11, sự sa đọa do tội lỗi tiếp nối trong câu chuyện của dân thành Sôđôm. Trong đoạn văn đó, sự phê phán luân lý chống lại các quan hệ đồng tính luyến ái là không thể nghi ngờ. Trong Lêvi 18,22 và 20,13, trong mô tả các điều kiện cần thiết để thuộc về Dân Được Tuyển Chọn, tác giả loại trừ khỏi Dân của Thiên Chúa những ai hành xử theo đồng tính luyến ái.
Dựa trên nền tảng của sự trình bày luật thần quyền, một quan điểm cánh chung đã được thánh Phaolô khai triển trong 1 Cr 6, 9 khi Ngài đề nghị cùng một giáo thuyết và liệt kê những ai hành xử theo đồng tính luyến ái vào số các người sẽ không được vào Nước Thiên Chúa.
Trong Rôma 1, 18-32, vẫn xây dựng trên các truyền thống luân lý của các vị tiền bối, nhưng trong bối cảnh mới của sự chạm trán giữa Kitô giáo và xã hội ngoại giáo thời của ngài, thánh Phaolô sử dụng hành vi đồng tính luyến ái như một thí dụ của sự mù quáng đã chinh phục con người. Thay vì sự hòa hợp nguyên thủy giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo, sự méo mó gay gắt của thờ ngẫu tuợng đã dẫn đến mọi loại quá trớn luân lý. Thánh Phaolô không tìm thấy một thí dụ nào rõ ràng hơn về sự bất hòa hợp này là các quan hệ đồng tính luyến ái. Cuối cùng, 1 Tm 1, hoàn toàn tiếp nối với lập trường Kinh Thánh, tách những kẻ đã loan truyền giáo thuyết sai lạc và trong câu 10, minh nhiên gọi những ai làm hành vi đồng tính luyến ái là kẻ tội lỗi.
7. Giáo Hội, vâng phục Thiên Chúa, Đấng đã thiết lập Giáo Hội và ban cho Giáo Hội đời sống bí tích, cử hành kế hoạch Thiên Chúa về sự hiệp nhất yêu thương và truyền sinh của người nam và người nữ trong bí tích hôn phối. Chỉ trong tương quan hôn nhân mà việc sử dụng năng lực tình dục có thể là tốt lành về mặt luân lý. Vì thế, một người thực hiện hành vi đồng tính luyến ái là hành động không hợp luân lý.
Chọn một ai đó cùng phái tính cho hoạt động tình dục của mình là phá hủy biểu trưng và ý nghĩa phong phú của tạo dựng tính dục của Tạo Hóa, đó là chưa nói đến mục tiêu của hành vi tình dục. Hoạt động đồng tính không phải là sự kết hợp bổ sung có thể thông truyền sự sống; và vì vậy nó phá vỡ lời mời gọi đi đến sự sống mang hình thức tự hiến mà Tin Mừng nói đến, là tinh hoa của đời sống Kitô hữu. Điều này không có nghĩa là các người đồng tính thường không quảng đại và tự hiến chính mình, nhưng khi họ dấn thân vào hoạt động đồng tính luyến ái, họ khẳng định bên trong họ một sự nghiêng chiều tình dục bị rối loạn, một cách chủ yếu đam mê chính mình.
Như mọi rối loạn luân lý, hoạt động đồng tính luyến ái ngăn trở người đó hoàn thành viên mãn và hạnh phúc riêng của người đó, bằng cách hành động trái nghịch với sự khôn ngoan sáng tạo của Thiên Chúa. Giáo Hội, khi khước từ các ý kiến sai lạc đối với đồng tính luyến ái, không giới hạn nó, nhưng đúng hơn là bảo vệ tự do và phẩm giá con người được hiểu một cách thực tế và đích thật.
8. Vì vậy, giáo huấn của Giáo Hội ngày nay là sự tiếp nối với quan điểm Kinh Thánh và với Truyền Thống hằng định của Giáo Hội. Mặc dù thế giới ngày nay thật mới mẻ trong nhiều cách, cộng đoàn Kitô hữu cảm nghiệm được cầu nối sâu xa và bền bỉ, vốn nối kết chúng ta với các thế hệ đã đi trước, “được ghi dấu đức tin.”
Tuy nhiên, ngày nay càng có nhiều người, ngay cả bên trong Giáo Hội, đang gây áp lực to lớn để Giáo Hội chấp nhận tình trạng đồng tính như thể nó không phải là bị rối loạn và không chấp nhất hành vi đồng tính. Những người thuộc Giáo Hội lý luận theo cách này thường có mối liên hệ chặt chẽ với các người bên ngoài Giáo Hội có cùng quan điểm. Nhóm người này được hướng dẫn bởi quan niệm đối nghịch với sự thật về con người, vốn được bộc lộ hoàn toàn trong mầu nhiệm Đức Kitô. Họ phản ánh, ngay cả không phải một cách ý thức hoàn toàn, một ý thức hệ duy vật vốn chối bỏ bản tính siêu vượt của con người cũng như ơn gọi siêu nhiên của mọi cá nhân.
Các thừa tác viên của Giáo Hội phải bảo đảm rằng các người đồng tính luyến ái mà họ chăm sóc sẽ không bị hướng dẫn sai lạc bởi quan điểm trên, vốn đối nghịch với giáo huấn Giáo Hội một cách sâu xa. Nhưng nguy cơ là thật lớn và có nhiều người tìm cách tạo ra sự lẫn lộn về lập trường của Giáo Hội, và rồi sử dụng sự lẫn lộn đó cho lợi ích riêng của họ.
9. Phong trào bên trong Giáo Hội, với hình thức các nhóm gây áp lực có nhiều tên và mức độ lớn nhỏ khác nhau, cố gắng tạo ra ấn tượng rằng nó đại diện cho tất cả các người đồng tính luyến ái Công Giáo. Thực ra, thành viên của nhóm là những người hoặc là lờ đi giáo huấn của Giáo Hội hoặc là tìm cách giảm nhẹ giáo huấn. Phong trào qui tụ dưới sự che chở của Công Giáo các người đồng tính luyến ái không có ý định từ bỏ hành vi đồng tính của họ. Một chiến thuật được dùng để phản đối cho rằng một vài hay tất cả chỉ trích hay sự dè dặt về người đồng tính luyến ái, hoạt động và lối sống của họ, chỉ là các hình thức khác nhau của sự phân biệt đối xử bất công đối với họ.
Trong vài quốc gia có một nỗ lực để điều khiển Giáo Hội bằng cách đạt được sự ủng hộ nhiệt tình của các mục tử nhằm thay đổi các quy chế dân sự và luật pháp. Họ thực hiện điều này nhằm thích ứng với khái niệm của các nhóm áp lực này, cho rằng đồng tính luyến ái ít nhất là vô hại hoàn toàn, nếu không phải là một việc tốt hoàn toàn. Ngay cả khi việc thực hành đồng tính luyến ái có thể đe dọa nghiêm trọng đời sống và phúc lợi của phần lớn dân chúng, các người ủng hộ chúng vẫn không nao núng và từ chối xem xét tầm quan trọng của các mối nguy cơ liên can.
Giáo Hội không bao giờ nhẫn tâm. Đúng là lập trường rõ ràng của Giáo Hội không thể được cứu xét dưới áp lực của luật pháp dân sự hay các trào lưu. Nhưng Giáo Hội thực sự quan tâm về số đông người không được đại diện bởi phong trào ủng hộ đồng tính luyến ái, và về các người có thể bị cám dỗ tin vào sự tuyên truyền dối trá của nó. Giáo Hội cũng ý thức là quan điểm, vốn cho rằng hoạt động đồng tính luyến ái tương đương, hay có thể được chấp nhận, với sự diễn tả tình dục của tình yêu vợ chồng, có ảnh hưởng trực tiếp lên hiểu biết của xã hội về bản chất và quyền lợi của gia đình và làm nguy hại cho các điều này.
10. Đáng tiếc là các người đồng tính luyến ái đã và đang là đối tượng của sự dữ bạo lực trong lời nói hay trong hành động. Lối cư xử như thế đáng bị các mục tử của Giáo Hội kết án bất cứ nơi nào nó xảy ra. Điều đó bộc lộ một loại coi thường người khác, gây nguy hiểm cho các nguyên tắc nền tảng nhất của một xã hội lành mạnh. Phẩm giá nội tại của mỗi con người phải luôn luôn được tôn trọng trong lời nói, hành động hay trong luật pháp.
Nhưng phản ứng đúng đắn đối với tội ác chống lại các người đồng tính luyến ái không nên là công bố rằng tình trạng đồng tính luyến ái không phải là bị rối loạn. Khi một công bố như thế được đưa ra và theo đó, hoạt động đồng tính luyến ái được chấp nhận, hoặc khi luật pháp dân sự được thiết lập để bảo vệ cái hành vi đó, thì Giáo hội nói riêng và xã hội nói chung sẽ không ngạc nhiên khi các khái niệm và thực hành lệch lạc chiếm được chỗ đứng, và các phản ứng vô lý và bạo lực gia tăng.
11. Người ta lý luận rằng khuynh hướng đồng tính trong một số trường hợp không phải là kết quả của sự chọn lựa hữu ý; và vì vậy người đồng tính không có chọn lựa nào khác hơn là hành xử theo cách đồng tính luyến ái. Thiếu tự do, một người như thế, ngay cả dấn thân vào hoạt động đồng tính, sẽ không phạm tội.
Ở đây, truyền thống luân lý khôn ngoan của Giáo Hội là cần thiết vì truyền thống cảnh giác chống lại việc tổng quát hóa trong phê phán các trường hợp riêng lẻ. Quả thật, các hoàn cảnh có thể tồn tại, hay có thể đã tồn tại trong quá khứ, có thể làm giảm nhẹ hay xóa đi tính lỗi phạm của cá nhân trong hoàn cảnh đó; hay các hoàn cảnh khác có thể làm gia tăng tính lỗi phạm. Điều cần phải tránh với mọi giá là sự giả định không cơ sở và hạ thấp con người cho rằng hành vi đồng tính luyến ái của các người đồng tính, luôn luôn và hoàn toàn cưỡng bách và vì vậy không có lỗi. Điều chính yếu là sự tự do nền tảng, tạo tính cách cho con người và làm cho con người có phẩm giá phải được nhìn nhận cũng thuộc về người đồng tính luyến ái. Như trong mọi hoán cải khỏi tội lỗi, sự từ bỏ hoạt động đồng tính luyến ái đòi hỏi sự hợp tác sâu xa của cá nhân với ân sủng giải thoát của Thiên Chúa.
12. Vậy thì, các người đồng tính luyến ái phải làm gì để theo chân Thiên Chúa? Một cách nền tảng, họ được mời gọi để thực hiện ý Thiên Chúa trong đời sống của họ bằng cách nối kết bất cứ đau khổ và khó khăn, mà họ gặp phải do bởi tình trạng của họ, với hy sinh thập giá của Đức Chúa. Thập giá đó, đối với người tín hữu, là hy sinh mang lại hoa trái vì từ sự chết đó, đem lại sự sống và sự cứu rỗi. Trong khi bất cứ tiếng mời gọi nào vác thập giá hay hiểu biết đau khổ của Kitô giáo theo cách này, có thể đoán trước là sẽ gặp phải chế giễu cay đắng của một số người, nên nhớ rằng đây là con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu cho tất cả những ai theo Đức Kitô
Thật vậy, không gì khác hơn là giáo huấn của Thánh Tông Đồ Phaolô gửi tín hữu Galát khi ngài nói rằng Thần Khí làm phát sinh trong đời sống người tin “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (5,22) và hơn nữa (c. 24), “anh em không thể thuộc về Đức Kitô trừ khi anh em đóng đinh tất cả các dục vọng và đam mê.”
Tuy nhiên, dễ hiểu lầm, nếu người ta đơn thuần nhìn sự tự hủy như một nỗ lực vô nghĩa. Thập giá là sự tự hủy chính mình, nhưng dùng trong thi hành ý Thiên Chúa, Đấng làm cho sự sống đến từ sự chết và ban sức mạnh cho những ai tín thác vào Ngài để thực thi nhân đức thay vì nết xấu.
Cử hành mầu nhiệm Phục Sinh, cần để cho mầu nhiệm đó in dấu trong mảnh đời hàng ngày. Từ chối hy sinh ý muốn riêng mình trong vâng phục ý Thiên Chúa là chống lại một cách hiệu lực ơn cứu độ. Cứ như thập giá là trung tâm diễn tả tình yêu cứu độ của Thiên Chúa đối với chúng ta trong Đức Giêsu, thì sự hòa hợp của việc tự hủy của những người nam và người nữ đồng tính luyến ái với hy sinh của Thiên Chúa sẽ tạo nên trong họ một nguồn mạch tự hiến sẽ cứu họ khỏi một cách thức đời sống, vốn luôn đe dọa phá hủy họ.
Các Kitô hữu đồng tính luyến ái được mời gọi, như tất cả mọi người chúng ta, sống khiết tịnh. Khi họ dâng hiến đời họ để hiểu biết bản chất của lời mời gọi riêng tư của Thiên Chúa dành cho họ, họ sẽ có thể cử hành bí tích Hòa Giải một cách trung thành hơn và đón nhận ân sủng của Thiên Chúa ban tặng một cách tự do, để hoán cải cuộc đời họ tràn đầy hơn theo Con Đường của Ngài.
13. Lẽ tất nhiên chúng tôi nhìn nhận rằng, trong phạm vi rộng lớn, sự truyền thông rõ ràng và thành công của giáo huấn Giáo Hội cho tất cả các tín hữu và cho xã hội nói chung, phụ thuộc vào sự giảng dạy đúng đắn và sự trung thành của các thừa tác viên của Giáo Hội. Giám mục có trách nhiệm nặng nề một cách đặc biệt để thấy rằng các người phụ tá của mình trong sứ vụ, nhất là các linh mục, phải được thông tin một cách đúng đắn và sẵn sàng mang giáo huấn Giáo Hội trong sự toàn vẹn của nó đến cho mọi người.
Sự quan tâm đặc thù và thiện chí, được biểu lộ nơi nhiều linh mục và tu sĩ trong chăm sóc mục vụ của họ đối với các người đồng tính luyến ái là đáng ngưỡng mộ, và chúng tôi hy vọng, sẽ không suy giảm. Các thừa tác viên nhiệt tình như thế nên có niềm tin cậy rằng họ đang theo đuổi một cách trung thành ý Thiên Chúa, bằng cách khuyến khích người đồng tính đi đến một cuộc sống khiết tịnh và bằng sự khẳng định phẩm giá và giá trị Thiên Chúa ban cho người đó.
14. Ghi nhớ điều này, Bộ ước ao yêu cầu các giám mục phải thận trọng một cách đặc biệt về các chương trình nào đó có thể tìm cách gây áp lực lên Giáo Hội để thay đổi giáo huấn, ngay cả khi chương trình đó công bố sẽ không làm như thế. Việc xem xét cẩn thận các tuyên bố công khai của họ và các sinh hoạt mà họ khuyến khích, cho thấy một sự hàm hồ đã được nghiên cứu để nhằm làm các mục tử và các tín hữu lạc hướng. Ví dụ, họ có thể trình bày giáo huấn của Huấn Quyền, nhưng chỉ như thể đó là một nguồn có thể lựa chọn cho việc huấn luyện lương tâm. Uy quyền đặc biệt của giáo huấn không được nhìn nhận. Vài trong các nhóm này sẽ sử dụng từ “Công Giáo” để mô tả hoặc là tổ chức hoặc là thành viên được nhắm đến của nó, nhưng họ không bảo vệ hay đẩy mạnh giáo huấn của Huấn Quyền; thật vậy, họ thậm chí tấn công giáo huấn công khai. Trong khi các thành viên của họ có thể công bố ước muốn hòa hợp đời sống của họ với giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng thực tế họ lại từ bỏ giáo huấn của Giáo Hội của Đức Giêsu. Hành động nghịch lý này không nên được sự cổ vũ nào của các giám mục.
15. Chúng tôi khuyến khích các giám mục, hãy cung cấp chăm sóc mục vụ phù hợp hoàn toàn với giáo huấn của Giáo Hội đối với các người đồng tính luyến ái trong giáo phận của mình. Không chương trình mục vụ đích thật nào được bao hàm các tổ chức trong đó người đồng tính luyến ái liên kết với nhau, mà không nói rõ ràng rằng hoạt động đồng tính luyến ái là vô luân lý. Một lối tiếp cận mục vụ thật sự sẽ đề cao nhu cầu giúp các người đồng tính tránh các cơ hội gần dễ phạm tội.
Chúng tôi hết lòng cổ vũ các chương trình nào tránh được các nguy hiểm này. Nhưng chúng tôi ước muốn làm rõ ràng rằng trong cố gắng cung cấp chăm sóc mục vụ, mà xa rời giáo huấn của Giáo Hội, hay giữ im lặng về giáo huấn này, thì không có chăm sóc cũng không có mục vụ. Chỉ những gì là chân thật mới có thể là mục vụ. Lờ đi lập trường của Giáo Hội sẽ ngăn trở người nam và người nữ đồng tính đón nhận sự chăm sóc mà họ cần và xứng đáng được hưởng.
Một chương trình mục vụ đích thật sẽ giúp đỡ các người đồng tính trên mọi mức độ của đời sống thiêng liêng: qua các bí tích, và cách riêng qua việc thường xuyên và chân thành đến với bí tích Hòa Giải, qua cầu nguyện, chứng từ, lời khuyên và chăm sóc cá nhân. Theo cách thức như thế, toàn thể cộng đoàn Kitô hữu có thể nhận ra lời mời gọi riêng của mình để giúp đỡ anh chị em của mình, mà không lừa dối họ hay cô lập họ.
16. Từ cách tiếp cận nhiều mặt này, có rất nhiều thuận lợi đạt được, trong đó ít nhất có việc ý thức rằng một người đồng tính, như mọi con người khác, cần được nuôi dưỡng một cách sâu xa cùng lúc ở nhiều mức độ khác nhau.
Con người, được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, và giống như Thiên Chúa, khó có thể được mô tả một cách đầy đủ bằng quy chiếu giản lược với khuynh hướng tính dục của người đó. Mọi người sống trên mặt đất này có các vấn đề và khó khăn riêng tư, nhưng cũng có các thách đố để tăng trưởng, sức mạnh, tài năng và ân huệ. Ngày nay, Giáo Hội cung cấp một bối cảnh hết sức cần thiết cho việc chăm sóc con người, khi từ chối xem con người như là một “khác phái tính luyến ái” hay “đồng tính luyến ái”, và nhấn mạnh rằng mỗi nhân vị có căn tính nền tảng: thụ tạo của Thiên Chúa, và bởi ân sủng, là con cái của Người, và thừa hưởng sự sống vĩnh cửu.
17. Trong khi kéo sự chú ý của các giám mục vào vấn đề này, Bộ ước ao nâng đỡ sự cố gắng của họ để bảo đảm rằng giáo huấn của Thiên Chúa và của Giáo Hội về vấn đề quan trọng này được truyền thông một cách đầy đủ cho tất cả các tín hữu.
Trong ánh sáng của các điểm nêu trên, các giám mục nên quyết định cho giáo phận của mình sự giới hạn của việc can thiệp về phần các giám mục. Hơn nữa, các giám mục nếu thấy đó là hữu ích, các vị sẽ hành động phối hợp xa hơn ở cấp Hội đồng Giám mục quốc gia.
Đặc biệt, chúng tôi yêu cầu các giám mục ủng hộ, với các phương tiện mà các vị có, sự phát triển các hình thức thích hợp của việc chăm sóc mục vụ cho các người đồng tính luyến ái. Các phương tiện này nên bao gồm cả sự trợ giúp của các khoa tâm lý, xã hội, và y khoa, trong sự phù hợp hoàn toàn với giáo huấn của Giáo Hội.
Các giám mục được khuyến khích mời gọi sự trợ giúp của tất cả các thần học gia Công Giáo, là những người, bằng sự giảng dạy những gì mà Giáo Hội dạy, và bằng sự đào sâu suy tư về ý nghĩa đích thật của tính dục con người và của hôn nhân Kitô giáo với các nhân đức mà nó đem lại, sẽ đóng góp quan trọng trong lãnh vực đặc biệt này của chăm sóc mục vụ.
Chúng tôi yêu cầu các giám mục cẩn trọng đặc biệt trong việc lựa chọn các thừa tác viên mục vụ, để cho nhờ trình độ cao của sự trưởng thành nhân bản và thiêng liêng và bởi sự trung thành của họ đối với Huấn Quyền, họ có thể là người phục vụ thực sự cho các người đồng tính luyến ái, cổ vũ sức khỏe và phúc lợi của họ trong ý nghĩa đầy đủ nhất. Các thừa tác viên như thế sẽ từ bỏ các ý kiến thần học không đồng ý với giáo huấn của Giáo Hội, và do đó, không thể được sử dụng như là các chỉ dẫn cho chăm sóc mục vụ.
Chúng tôi khuyến khích các giám mục cổ vũ các chương trình giáo lý thích hợp dựa trên sự thật về tính dục con người, trong tương quan với gia đình như đã được Giáo Hội giảng dạy. Các chương trình như thế sẽ cung cấp một bối cảnh tốt để xử lý vấn đề đồng tính luyến ái.
Giáo lý này cũng sẽ trợ giúp các gia đình của các người đồng tính luyến ái để xử lý vấn đề này, vốn ảnh hưởng trên họ một cách sâu xa.
Nên rút lui sự ủng hộ cho các tổ chức nào tìm cách phá hoại giáo huấn của Giáo Hội, mơ hồ về giáo huấn, hay chối bỏ nó toàn bộ. Sự ủng hộ như thế, hay ngay cả sự làm ra vẻ ủng hộ như thế, có thể bị giải thích sai một cách trầm trọng. Nên chú ý đặc biệt về việc thi hành sắp xếp giờ giấc các dịch vụ tôn giáo và việc sử dụng các tòa nhà Giáo Hội bởi các nhóm này, bao gồm các tiện nghi của các trường Công Giáo. Đối với một số người, việc cho phép sử dụng tài sản Giáo Hội có thể dường như chỉ mang ý nghĩa công bằng và bác ái; nhưng trong thực tế nó đối nghịch với mục đích mà các cơ sở này được dựng nên, do đó gây lạc hướng và thường tai tiếng.
Trong định mức luật pháp được đề nghị, các giám mục nên xem mối quan tâm cao nhất là trách nhiệm bảo vệ và cổ vũ đời sống gia đình.
18. Đức Chúa Giêsu hứa: “anh em sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8, 32). Kinh thánh truyền lệnh chúng ta nói sự thật trong tình yêu (x. Ep 4, 15). Thiên Chúa Đấng là chân lý và tình yêu mời gọi Giáo Hội chăm sóc mọi người nam, người nữ và trẻ em, với sự quan tâm mục tử của Đức Chúa Đấng thương xót của chúng ta. Chính trong tinh thần này mà chúng tôi gửi bức thư này đến các giám mục trong Giáo Hội, với hy vọng rằng nó sẽ hữu ích khi các giám mục chăm sóc các người, mà đau khổ của họ chỉ có thể nặng nề thêm bởi sai lầm và được chiếu sáng bởi chân lý.
Trong cuộc tiếp kiến Hồng Y Bộ trưởng,
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chuẩn y Thư này,
được chọn trong một hội nghị thông thường của Bộ Giáo lý Đức Tin,
và ra lệnh công bố Thư này.
Ban hành tại Rôma, ngày 1/10/1986
Hồng y JOSEPH RATZINGER
Bộ trưởng
TGM ALBERTO BOVONE
Tổng Giám mục hiệu tòa Caesarea ở Numidia
Thư ký

HIỂU NHƯ THẾ NÀO VỀ ĐỒNG TÍNH


Đồng tính luyến ái và chuyển giới tính: một nhận định trên phương diện Khoa học và Luân lý Công giáo

PHÂN BIỆT GIỚI TÍNH TRÊN PHƯƠNG DIỆN Y KHOA
I. GIỚI TÍNH BÌNH THƯỜNG
Nam: người mang bộ nhiễm sắc thể 46XY, cơ quan sinh dục bên trong gồm 2 tinh hoàn, bộ phận sinh dục ngoài là nam.
Nữ: người mang bộ nhiễm sắc thể 46 XX, cơ quan sinh dục bên trong gồm 2 buồng trứng, tử cung, bộ phận sinh dục ngoài là nữ.
Giới tính bao gồm năm khía cạnh: bộ nhiễm sắc thể, cơ quan sinh dục bên trong, bộ phận sinh dục ngoài, nội tiết tố (hormone) giới tính, và tâm lý giới tính. Ở một con người bình thường, năm khía cạnh này phải thống nhất và hài hòa.
Nội tiết tố có thể xem như là các sứ giả hóa học thông tin cho các mô (tissues) trong cơ thể để mang lại các sự thay đổi chuyển hóa khác nhau. Ở người nữ, nội tiết tố sinh dục là oestrogen và progesterone. Oestrogen được sản xuất chủ yếu bởi buồng trứng (ở nửa đầu chu kỳ kinh nguyệt và thêm progesterone vào nửa chu kỳ sau) và bởi bánh nhau khi có thai. Oestrogen chịu trách nhiệm về phát triển dậy thì và cho các đặc tính thể lý ở người nữ như cơ quan sinh dục trong, cơ quan sinh dục ngoài, vú. Nó bảo đảm sự tăng trưởng niêm mạc tử cung trong nửa chu kỳ đầu của kinh nguyệt và chuẩn bị nội mạc tử cung sẵn sàng nuôi dưỡng thai khi có thai.
Androgens là các nhóm nội tiết tố sinh dục nam đem lại cho người đàn ông các đặc tính “nam,” hay gọi tắt là nam tính. Các nội tiết tố này thiết yếu cho chức năng tình dục và sinh sản. Chúng cũng chịu trách nhiệm cho sự phát triển các đặc tính giới tính phụ nơi người nam bao gồm sự tăng trưởng của lông và râu trên thân thể, phát triển bắp cơ và xương. Nội tiết tố tình dục chủ yếu của nam là testosterone, chịu trách nhiệm cho quá trình dậy thì, vốn được sản xuất chủ yếu bởi tinh hoàn (testis). Chức năng khác của testosterone là thay đổi dây thanh âm để tạo ra giọng nam; gây xung động tình dục và chức năng tình dục; sự tăng trưởng và chức năng của tuyến tiền liệt (prostate gland); sản xuất tinh trùng (sperm production).
Tuyến yên (pituitary gland), một tuyến nhỏ nằm trong não, kiểm soát bài tiết nội tiết tố của tinh hoàn (ở nam) và buồng trứng (ở nữ). Tuyến yên điều khiển tinh hoàn hay buồng trứng thông qua hai nội tiết tố: – Luteinising hormone (LH) và Follicle stimulating hormone (FSH) – cũng được gọi là gonadotrophins. Tuyến yên lại chịu sự kiểm soát của một tuyến lân cận cũng nằm trong não, gọi là tuyến dưới đồi (hypothalamus). Vậy, bất cứ rối loạn nào ở tinh hoàn, buồng trứng, tuyến yên, tuyến dưới đồi đều có thể gây rối loạn sản sinh nội tiết tố nam hay nữ. Vùng vỏ của tuyến thượng thận (adrenal glands) còn tiết ra nội tiết tố nam, androgen. Hoạt tính sinh dục của androgen vỏ thượng thận rất ít, chỉ rõ khi có sự bài tiết gia tăng bệnh lý.
II. LƯỠNG TÍNH (INTERSEX)
Đây là trường hợp bệnh lý do rối loạn phát triển hệ thống cơ quan sinh dục vào thời kỳ bào thai. Hệ sinh dục của con người gồm có ba phần: các tuyến sinh dục trong, đường sinh dục và các bộ phận sinh dục ngoài. Chúng có nguồn gốc cấu tạo khác nhau và chịu ảnh hưởng của các tác nhân khác nhau khi hình thành. Việc bộ phận sinh dục ngoài không rõ ràng được gọi là tình trạng lưỡng tính (từ ngữ “bình dân” hay được sử dụng là “ái nam ái nữ”).
1. LƯỠNG TÍNH THẬT
Rất hiếm. Những người này có cả tinh hoàn và buồng trứng (tách riêng hay nhập chung thành tuyến tinh hoàn – buồng trứng) nhưng chúng thường không có tính năng hoạt động. Khi đứa trẻ mới ra đời, có thể các bác sĩ đã phát hiện thấy cơ quan sinh dục ngoài phát triển không có giới tính rõ ràng, dương vật rất nhỏ và có khi nứt ở niệu đạo. Vào thời kỳ dậy thì, ở người đó có thể đồng thời xuất hiện cả các đặc tính nam và nữ, thậm chí có cả kinh nguyệt. Nhiễm sắc thể là 46XX/46XY (một số tế bào mang 46XX và một số tế bào mang 46 XY) hoặc là loại hình hỗn hợp của cả hai loại trên. Nguyên nhân gây lưỡng tính thật là có bất thường trong quá trình tăng trưởng phân định giới tính.
Phần lớn các trường hợp “ái nam ái nữ” thường gặp là lưỡng tính giả.
2. LƯỠNG TÍNH GIẢ
Lưỡng tính giả ở nữ: Bệnh nhân là nữ, có buồng trứng hẳn hoi, nhưng do tuyến thượng thận sản xuất quá nhiều nội tiết tố nam androgen nên bộ phận sinh dục ngoài bị “nam hóa”, như âm vật phì đại, hai môi lớn to và dính nhau như bìu. Trường hợp nam hóa nặng có thể tạo nên đoạn niệu đạo – âm vật giống như ở người nam có tinh hoàn ẩn. Nguyên nhân thường gặp nhất là hội chứng thượng thận– sinh dục. Một số trường hợp do mẹ có dùng thuốc chứa androgen khi mang thai, mẹ bị u buồng trứng nam hóa (u buồng trứng tiết ra androgen).
Lưỡng tính giả ở nam: Bộ nhiễm sắc thể vẫn là 46 XY như mọi đàn ông khác, nhưng bộ phận sinh dục lại giống nữ. Nguyên nhân là nội tiết tố nam testosterone và MIS – một chất cần cho sự phát triển giới tính nam – không được tiết ra đủ.
Bệnh nữ hóa có tinh hoàn: Người bệnh có tinh hoàn và có bộ nhiễm sắc thể 46XY, là đàn ông nhưng cơ quan sinh dục ngoài không nhạy cảm với testosterone nên không biệt hóa thành dương vật. Họ có âm đạo (thường bị tịt một đầu, không có tử cung, có vòi tử cung nhưng kém phát triển). Đến khi dậy thì, vú lớn lên nhưng không hành kinh, lông mu ít hay không có. Các tinh hoàn thường ở trong bụng hay ống bẹn, cũng có khi ở môi lớn. Về phương diện phôi thai học, các người này giống lưỡng tính giả ở nam, song họ không có cảm giác lưỡng tính mà coi mình là phụ nữ do bộ phận sinh dục ngoài giống như người nữ bình thường, được nuôi dạy như nữ.
Loạn sinh tuyến sinh dục kết hợp: Các trường hợp này cũng rất hiếm: Bệnh nhân có tinh hoàn một bên, bên kia không rõ ràng. Cấu trúc đường sinh dục thường là nữ, song đôi khi cũng có vài cấu trúc dạng nam. Các bộ phận sinh dục ngoài có thể là nữ, nam hay pha trộn cả hai. Khi dậy thì, bệnh nhân không phát triển vú, không hành kinh.
Các trường hợp nghi ngờ lưỡng tính cần được bác sĩ khám kỹ để tìm nguyên nhân, từ đó xác định biện pháp xử lý. Các người đàn ông bị hội chứng Klinefelter – mang thừa nhiễm sắc thể nữ (47XXY) – giờ đây vẫn có thể có con, nếu được trải qua phẫu thuật để phục hồi tinh trùng.
III. CÓ HAY CHĂNG GIỚI TÍNH THỨ BA?
Theo Hãng tin AFP, ngày 2–4–2014, Tòa án Tối cao Úc ra phán quyết thừa nhận sự tồn tại của “giới tính thứ ba”, không phải là nam hoặc nữ. Tòa án Tối cao Úc cho rằng không phải tất cả mọi người đều bị buộc phải xác nhận mình là nam hay nữ. Năm 2013, Đức thông qua luật cho phép trẻ sơ sinh mang đặc điểm của cả nam và nữ được đăng ký giới tính không xác định.3 Chúng ta nghĩ gì về sự kiện này?
Một mặt, đúng như vừa trình bày ở trên, chúng ta thấy có những người lưỡng tính, khó xác định nam hay nữ, nên việc Đức thông qua luật cho phép trẻ sơ sinh mang đặc điểm của cả nam và nữ được đăng ký giới tính không xác định là có thể hợp lý. Trong tương lai, những đứa trẻ này cần được y học giúp đỡ để xác định giới tính và ổn định tâm lý. Mặt khác, từ “giới tính thứ ba” là không hợp lý, có thể gây nhiều lầm lẫn. Thật vậy, truyền thống xã hội xây dựng gia đình ổn định dựa trên hiểu biết hai giới tính nam và nữ. Lưỡng tính là một bệnh lý, như y học đã xác định, không nên “bình thường hóa” bệnh lý bằng cách gọi tên là “giới tính thứ ba”.
IV. CHUYỂN GIỚI TÍNH (TRANSGENDER)
Theo thống kê về giới tính học của thế giới, tỉ lệ thích chuyển giới ở nam là 1/30.000 người. Ở nữ, tỷ lệ này là 1/100.000 người.4 Những người này, bộ nhiễm sắc thể, cả tuyến sinh dục bên trong lẫn bộ sinh dục bên ngoài hoàn toàn bình thường, nhưng do một yếu tố nào đó chưa xác định, họ có rối loạn về tâm lý giới tính, cảm thấy không hài lòng về phái tính của mình, ước ao sống phái tính ngược lại. Một số người tìm cách phẫu thuật để chuyển giới.
ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Trước kia, có nhiều quan niệm sai lầm và hình ảnh rập khuôn về các người đồng tính luyến ái và các hành vi tình dục của họ, làm nhiều người trong chúng ta nhìn họ bằng con mắt không mấy thiện cảm, đặc biệt trong xã hội Việt–Nam, khi chưa có nhiều nghiên cứu sâu xa nghiêm túc về nhóm người đồng tính luyến ái. Hơn nữa, tỉ lệ nhiễm HIV xảy ra cao hơn ở những người nam đồng tính hay người nam luyến ái cả hai giới dường như củng cố thêm các phê phán ác cảm hay phân biệt đối xử đối với các người đồng tính.
I. SỰ MÔ TẢ RẬP KHUÔN VÀ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
Một trong các vấn đề đầu tiên của đồng tính luyến ái là sự giải phóng khỏi các suy nghĩ, mô tả rập khuôn, và một số hình thức phân biệt đối xử. Có nhiều hiểu lầm từ phía xã hội và đa số dân chúng đối với các người đồng tính luyến ái. Các kiểu mô tả thiên kiến về người đồng tính luyến ái như là bất bình thường, vô trách nhiệm, bệnh lý, nguy hiểm... Sự không chấp nhận của xã hội khiến nhiều người đồng tính cố gắng che giấu khuynh hướng tình dục của họ, để họ có thể sống một cách êm thắm không bị dị nghị trước mắt xã hội. James Harrison kêu gọi sự chú ý về điều mà có lẽ chúng ta không ý thức: “Các người đồng tính là các người đồng nghiệp mà chúng ta tôn trọng, các người thân thuộc mà chúng ta yêu mến. Họ là bạn bè, cô dì chú bác...”5 Khi một người ý thức được khuynh hướng đồng tính của mình, người ấy cũng thường ý thức được sự khác biệt của mình với đa số dân chúng. Hội đồng Giám mục tại Anh quốc nhận xét: “Ý thức về sự khác biệt, thuộc về một nhóm thiểu số, làm cho người đồng tính chịu đựng vấn đề giống như các loại nhóm thiểu số khác, nhưng còn thêm một điều là giữ kín sự khác biệt đó...Trong một xã hội mà họ là đối tượng của sự trêu chọc và khinh miệt, nói chung người đồng tính cảm thấy tự ti, và cô độc mà các người khác khó lòng, hay không thể hiểu được.”6
Dường như xã hội bị cuốn vào cái vòng xoáy: phản ứng xã hội không dung nạp lan rộng đối với người đồng tính khiến cho họ giữ kín khuynh hướng của mình, sự giữ kín này càng làm cho đa số dân chúng ít hiểu biết về họ, và từ đó càng tạo ra sợ hãi, hiểu lầm, mô tả thiên kiến, phân biệt đối xử của xã hội đối với nhóm người đồng tính.7
II. ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN BIỆT
1. CĂN TÍNH TÍNH DỤC (sexual identity): mỗi cá nhân đều có căn tính tính dục, có thể chia làm bốn loại.
Giới tính sinh học (biological sex): dựa trên trạng thái thể lý của chúng ta là nam hay nữ.
Căn tính giới tính (gender identity): là chúng ta cảm nhận thế nào là nam, là nữ. Căn tính giới tính bắt đầu hình thành từ hai tuổi, khi bé trai ý thức mình khác bé nữ, hay bé nữ thấy có điều gì mà bạn nam không giống mình. Ý thức này đóng góp phần quan trọng trong hình thành nhân cách là nam, là nữ.
Vai trò theo giới tính (gender roles): là những hy vọng, trông đợi của xã hội về hành vi cá nhân dựa trên giới tính sinh học. Điều này khá rõ ràng. Ví dụ từ lúc sinh ra, bé gái được cho đồ chơi búp–bê, thêu may, lựa màu hồng, màu vàng, bé trai chơi súng, máy bay, lựa màu xanh, màu trắng. Trong đời sống, người mẹ hay la con trai: “đừng khóc nhè như con gái”, hay khuyên dạy “con trai phải can đảm”. Hiểu biết vai trò nam nữ trong xã hội ngày nay thay đổi nhiều do phong trào nữ quyền và nền thần học nữ giới.
Khuynh hướng tình dục (sexual orientation): chỉ đến cái giới tính sinh học mà chúng ta bị hấp dẫn. Khác phái tính luyến ái (heterosexual) là bị hấp dẫn bởi phái khác. Luyến ái cả hai phái (bisexual) là bị hấp dẫn bởi cả hai phái trong các thời điểm khác nhau. Đồng tính luyến ái (homosexual) là bị hấp dẫn thể lý bởi người cùng phái tính.
2. ĐỊNH NGHĨA
Vài định nghĩa về người đồng tính luyến ái thường được dùng:
– là những người ít nhiều, một cách thường xuyên cảm thấy một ước muốn tình dục hướng về, và một đáp ứng tình dục đối với người cùng giới tính, và tìm cách thỏa mãn ước ao này với người đồng phái.
– là một người “trong đời sống trưởng thành được thúc đẩy bởi một sự hấp dẫn tình dục đối với người cùng phái tính và thường (nhưng không một cách nhất thiết) dấn thân vào các tương quan tình dục với người đồng phái.” 8
– là người “cảm thấy thoải mái và được khẳng định khi thân mật với người đồng tính, trong khi với người khác phái thì họ cảm thấy yếu ớt, bất bình, sợ hãi, hay đơn giản là dửng dưng hay ít thoải mái khi có cơ hội gần gũi tình dục, hay khi nó xảy ra.”9
Như vậy, nói chung, một người đồng tính luyến ái, một cách cơ bản, là người dửng dưng với sự hấp dẫn thể lý của người khác phái và nghiêng chiều một cách vững bền và chủ yếu để tìm kiếm sự thỏa mãn tình dục và/hay thỏa mãn tình cảm và hạnh phúc trong tương quan với người cùng phái. Còn các người thỉnh thoảng có kinh nghiệm thích người cùng phái không có nghĩa là người đó đồng tính luyến ái. Có những người không bao giờ một cách rõ ràng có hành vi hay tiếp xúc tình dục với người cùng phái, nhưng thật sự là đồng tính luyến ái bởi khuynh hướng thường xuyên và sâu xa bị hấp dẫn tình dục bởi người cùng phái, chỉ với người cùng phái họ mới có thể tìm được cảm giác hạnh phúc.
Đồng tính luyến ái là một hiện tượng phức tạp. Các nhà nghiên cứu Bell and Weinberg khám phá ra sự khác biệt lớn lao đáng kể trong nếp sống và nhân cách trong số hơn một ngàn nam nữ đồng tính luyến ái được phỏng vấn trong nghiên cứu của họ.
3. PHÂN BIỆT
– Luyến ái cả hai giới (bisexuals): là người chuyển từ luyến ái người khác phái tính sang luyến ái người cùng giới mà đa số nguyên nhân chưa rõ ràng. Có trường hợp người nam có vợ con bình thường, nhưng sau một thời gian bỗng thấy dửng dưng với vợ, không còn thèm muốn vợ và quan hệ tình dục với người nam khác. Có thể có trường hợp mà nguyên nhân là quan hệ với người vợ không được hạnh phúc. Ngoài ra, tôi gặp một trường hợp, một nữ bệnh nhân kể rằng bà lấy chồng năm 19 tuổi, có hai người con, nhưng đến năm 23 tuổi, tự nhiên mất kinh nguyệt và trở nên thích người nữ. Bà ấy ý thức điều này là bất thường, bà cố gắng chống lại khuynh hướng này nhưng không cưỡng được ham muốn người đồng giới, cuối cùng bà bỏ chồng con và sống chung với một người phụ nữ khác. Có thể nghĩ đến chăng trường hợp ở đây có liên quan đến thay đổi nội tiết tố trong người phụ nữ ấy, một loại bệnh lý thật sự?
– Giả đồng tính luyến ái (Pseudo–homosexuals): họ là người khác phái tính luyến ái nhưng vì có môi trường thuận lợi tiếp xúc với người cùng phái, nên dấn thân trong các hành vi đồng tính luyến ái để thoả mãn tình dục. Đây là trường hợp nơi một số trại lính, trại giam, cư xá sinh viên và có thể ngay cả trong chủng viện hay dòng tu.
Các hành vi đồng tính luyến ái trong đời tu thường liên quan đến đời sống thiếu trưởng thành trong tình cảm và nhân cách, và đôi khi sử dụng quyền lực một cách sai lạc trong tương quan giữa một người bề trên và bề dưới.
III. VÀI HIỂU BIẾT TÂM SINH LÝ – LUẬT TỰ NHIÊN
Vài quan sát cần được ghi nhận. Cần lưu ý, trong khi hành vi tình dục phần lớn phát xuất từ sự chọn lựa hay quyết định có ý thức, còn khuynh hướng tình dục của một người thì không như vậy. Người ta không chọn cho mình khuynh hướng tình dục. Không ai hình thành một cách đơn giản trí khôn họ để trở thành khác phái tính luyến ái hay đồng tính luyến ái.
Có kinh nghiệm về đồng tính luyến ái riêng rẽ và trong thời kỳ nhất định không có nghĩa là người ấy đồng tính luyến ái. Một số thanh niên, một cách đặc biệt, có thể kinh nghiệm sự hấp dẫn tình dục với người cùng phái và có thể đôi khi dấn thân vào hoạt động tình dục công khai với người cùng phái, nhưng các kinh nghiệm này thông thường chỉ phản ánh sự hiếu kỳ và biểu hiện của một trong các giai đoạn của phát triển tâm lý tính dục. Như thế, các biểu hiện này không chỉ ra rằng các thanh niên ấy là đồng tính hay sẽ trở thành đồng tính suốt đời.
Trong ánh sáng của các quan sát này, có thể rút ra hai điều:
1.     Cần phân biệt giữa khuynh hướng đồng tính của một người với hành vi tình dục đồng tính rõ ràng xảy ra do sự hấp dẫn thể lý mà người đó cảm thấy đối với một người cùng phái;
2.     Bởi vì không phải mọi hành vi tình dục đồng tính công khai đều phản ánh một khuynh hướng đồng tính thật sự, chúng ta phải công nhận rằng có hiện tượng giả đồng tính luyến ái.
Có một sự tương đồng ở đây giữa người khác phái tính luyến ái và người đồng tính luyến ái. Những người khác phái tính luyến ái không cố ý chọn cho mình khuynh hướng đó, mà nhận thức khuynh hướng của mình một cách tự nhiên. Cũng như thế, các người đồng tính luyến ái không làm các chọn lựa có ý thức rằng bị hấp dẫn tình dục bởi các người cùng giới. Đúng hơn, vào một thời điểm trong quá trình phát triển, người đồng tính khám phá ra họ bị lôi kéo tình dục về người cùng giới.
Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã từ lâu thừa nhận điều trên. Năm 1973 các giám mục Hoa Kỳ đã viết: “Có thể nói một cách không sai rằng một người nam hay nữ không ước muốn trở thành đồng tính luyến ái. Vào một thời điểm nhất định trong đời sống, một người khám phá ra rằng anh ấy/chị ấy là đồng tính và thường chịu đựng một số chấn thương tâm lý.”10 Một số nhà tâm lý học, như William Kraft cho rằng khuynh hướng đồng tính luyến ái tự nó không phải là không lành mạnh, nhưng hành vi đồng tính mới là vấn đề.
Năm 1976, các giám mục Hoa Kỳ viết: “Vài người tìm thấy rằng họ không có lỗi gì đóng góp vào khuynh hướng đồng tính của họ.”11 Năm 1990 các giám mục Hoa Kỳ xác định tính vô tội của khuynh hướng đồng tính: “bởi vì nó không được tự do chọn lựa, nên không phải là tội lỗi.”12 Câu này rất quan trọng vì nó khẳng định rằng do khuynh hướng tình dục không phải tự ý chọn lựa, nên khuynh hướng tình dục của một người, cho dù đồng tính luyến ái tự nó không phải là vấn đề của đánh giá luân lý. Tuy nhiên, theo ý riêng tôi, không phải bởi vì khuynh hướng đồng tính luyến ái của một người không do người đó chọn lựa, chỉ “phát hiện” ra khuynh hướng đó trong chính mình tại một giai đoạn nào đó của đời sống, mà chúng ta có thể xem khuynh hướng đồng tính đó là “tự nhiên”, “bình thường”. Thí dụ, một người chợt phát hiện ra mình mắc bệnh, chẳng hạn như mắc bệnh Tự Miễn (là một loại bệnh mà tế bào lympho trong cơ thể người bệnh không nhận ra được tế bào của chính mình, nên tạo ra kháng thể tự chống lại tế bào của chính mình, và hậu quả là người bệnh bị tổn thương ở nhiều cơ quan và sau cùng là cái chết), tuy họ không chọn lựa, nhưng bệnh Tự Miễn vẫn là một bệnh lý cần điều trị và phải điều trị.
Tài liệu “Tuyên Ngôn về một số vấn đề liên quan đến đạo đức tính dục” 1986 của Bộ Giáo lý Đức tin khẳng định: “Mặc dù sự nghiêng chiều cách riêng của người đồng tính không phải là một tội, nhưng đó là ít nhiều khuynh hướng mạnh mẽ hướng về một sự xấu luân lý nội tại (thực hiện hành vi tình dục đồng tính) và vì vậy sự nghiêng chiều tự nó phải bị xem như là một rối loạn khách quan.” Bộ Giáo lý Đức tin thừa nhận rằng các người đồng tính thường “quảng đại và hiến dâng”, tuy nhiên “khi họ thực hiện hành vi đồng tính thì họ tự khẳng định bên trong chính mình một sự nghiêng chiều tình dục rối loạn.”
Tài liệu 1986 của Bộ Giáo lý Đức tin đã phân biệt thêm các nguyên nhân ngoại lai tạo nên khuynh hướng đồng tính: “Khuynh hướng đến từ sự giáo dục sai lầm, do sự thiếu sót trong phát triển tình dục bình thường, do thói quen, do gương xấu, hay do các nguyên nhân tương tự khác, và là tạm thời, hay ít nhất là không phải không thể chữa lành được.” Một số người đồng tính ở đây được mô tả như nạn nhân của một loại kém may mắn, hay một loại rối loạn nào đó.
Một số thần học gia lý luận rằng tự nó–sự ước muốn quan hệ tình dục với người đồng phái tính– không có gì sai trái, vì ngay cả người khác phái tính luyến ái cũng có khi ước muốn tình dục với người khác không phải là vợ hay chồng của mình, hay người tu sĩ ở một giây phút nào đó, chợt thấy mình ước ao tình dục với một ai đó. Đúng là ước muốn tình dục với một ai đó không phải chồng hay vợ mình, là sai khách quan, nhưng chưa phải là sự xấu luân lý. Điều làm cho ước muốn đó trở nên xấu là khi người ấy chiều theo ý muốn đó, dù mới trong ý nghĩ; còn nếu bản thân đương sự đấu tranh với chính mình để vượt qua ước muốn sai trái, thì họ không những không phạm lỗi, mà còn có “công trạng” chiến đấu. Thật ra, cho dù người đồng tính không thực hiện hành vi tình dục đồng tính, thì cảm quan luân lý tự nhiên cũng cho thấy rằng khuynh hướng đồng tính là một điều gì trái ngược với tự nhiên, vì tình dục con người vốn phải được đặt nền tảng trên sự yêu thương tương hỗ, hài hòa giữa người nam và người nữ. Đó là một trong những sự việc hiển nhiên của đời sống, mà con người bình thường tự nhiên chấp nhận không cần chứng minh. Và, thực tế nhiều sự thật trong đời sống được nhìn nhận như lẽ đương nhiên, như là vợ chồng phải là một nam và một nữ, con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, vợ chồng phải trung thành, nhớ ơn kẻ giúp mình,... ai làm điều trái ngược với các điều trên, tự nhiên bị dư luận phê phán. Bạn có thể chấp nhận hay không chấp nhận chân lý hiển nhiên, nhưng chân lý vẫn là chân lý. Sự chối bỏ chân lý không thể biến đổi chân lý thành điều không đúng. Từ ngữ la–tinh “per se nota” (dịch sát nghĩa: được biết trong chính nó) được dùng cho nguyên lý này. Cảm quan này giải thích tại sao thông thường khi người ta phát hiện ra một ai đó là đồng tính luyến ái, phản ứng tự nhiên của họ là thấy “kỳ kỳ” ...
Về mặt y khoa, người nam và người nữ rất khác biệt nhau trong cấu trúc thể lý và tâm lý. Bởi vì họ khác nhau và tương hỗ cho nhau, và hài hòa với nhau, cho nên khi người nam và nữ kết hợp thân xác, thì khả năng thụ thai, sinh con là hoàn toàn có thể. Văn hóa Á Đông nói đến hỗ tương âm dương trong vận hành vũ trụ và trong chính con người. Khi mất hài hòa âm dương thì sinh ra bệnh lý. Trường hợp hai người nam hoặc hai người nữ quan hệ thân xác, thì việc thụ thai là điều hoàn toàn không thể có được. Điều này trái với luật tự nhiên. Sinh sản là một trong những khía cạnh tình dục nơi thực–động vật và nơi con người. Một số người có thể phản biện rằng các phụ nữ mãn kinh cũng có tình dục, nhưng không thể sinh con, hoặc có một số cặp vợ chồng vô sinh do bệnh lý bẩm sinh hay mắc phải. Điều đó là đúng, nhưng những người này vẫn hành động theo hỗ tương nam–nữ tự nhiên.13
Một người có thể có khuynh hướng đồng tính luyến ái nhưng không dấn thân các hành vi đồng tính luyến ái. Khuynh hướng này phức tạp và có thể tự nó không có tự do chọn lựa nhưng bị điều kiện hóa bởi một số điều kiện tâm sinh lý mỗi người. Tuy nhiên hành vi đồng tính luyến ái có thể được tự do chọn lựa. Người thực hiện hành vi đồng tính luyến ái có thể không có trách nhiệm về khuynh hướng đó của họ, nhưng họ có trách nhiệm về những gì họ chọn lựa và những gì họ làm. Vì vậy cái giá để là một người đồng tính lành mạnh là loại bỏ tất cả mọi hành vi tương quan tình dục đồng tính.
IV. GIÁO HUẤN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VỀ ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI 14
1. NỀN TẢNG KINH THÁNH
Vincent Genovesi S.J, lưu ý hai điểm trước khi tìm hiểu chi tiết vài đoạn Kinh Thánh liên quan đến đề tài đồng tính luyến ái. Trước hết, như học giả Tân ước Victor Paul Furnish nhắc nhở, người ta “không luôn luôn đồng ý về thẩm quyền của Kinh thánh nên được hiểu thế nào, cách riêng trong các giáo huấn cụ thể về luân lý.” Lời nhắc nhở này phù hợp cho việc tìm hiểu giáo huấn luân lý trong cả Cựu ước và Tân ước. Các tác giả thánh cũng chịu ảnh hưởng bởi lịch sử và văn hóa thời họ sống, và có một mục đích và đối tượng xác định trong trí tác giả. Về các giáo huấn liên quan các vấn đề luân lý cụ thể của thánh Phaolô, theo Furnish, cần có sự biện biệt khôn ngoan, không nên chấp nhận một cách đương nhiên và tôn kính như “con bò vàng”, cũng không thể loại bỏ hoàn toàn. Furnish giải thích rằng thánh Phaolô lúc đó đang viết cho các cộng đoàn Kitô hữu cụ thể với các đặc điểm văn hóa, chính trị, xã hội mà Ngài hiểu rõ, và rất khác với xã hội ngày nay, vì vậy chúng ta phải giải thích các thư của Ngài, bao gồm cả các huấn thị về luân lý.
Thứ hai, cũng như các từ ngữ “khác phái tính luyến ái”, “luyến ái cả hai phái”, các khái niệm “đồng tính luyến ái”, “người đồng tính” được tìm hiểu, phân tích hiểu rõ hơn nhờ các nghiên cứu tâm lý học hiện đại, và sự hiểu biết này chưa có trong thời Kinh Thánh được viết ra. Khái niệm “khuynh hướng đồng tính luyến ái” có lẽ chưa có trong tâm trí tác giả thánh, và các điều về đồng tính luyến ái mà Kinh Thánh nói đến hầu như để chỉ hành vi đồng tính.15
Xét đoạn văn St 19: trong nhiều thế kỷ truyền thống Kitô giáo chấp nhận quan điểm rằng đoạn văn này chỉ ra tội mà từ đó thành Sôđom bị phá hủy là hành vi đồng tính, hành vi này vì thế còn có được gọi là “sodomy”. Tuy nhiên, vài đoạn khác của Kinh Thánh dường như cho thấy sự hiểu trên không đúng. Thí dụ, ngôn sứ Giêrêmia nói rằng tội của Sôđom là ngoại tình, nói dối, và sự không muốn hối cải (Gr 23, 14); ngôn sứ Ezêkiel công bố rằng tội của dân thành Sôđom là “kiêu ngạo, phè phỡn ham ăn uống, tự cao tự đại, tự mãn”, “không ra tay giúp đỡ người nghèo khổ bần cùng, chúng tự cao tự đại và làm điều ghê tởm” (Ed 16, 49–50). Sách Khôn Ngoan xác định các tội lỗi của Sôđom như điên cuồng, kỳ thị, không đón tiếp khách lỡ đường (Kn 19, 13–14).
Trong Tin mừng Luca và Matthêu, chúng ta thấy Chúa Giêsu nói đến Sôđom trong bối cảnh là Ngài sai các môn đệ vào các thành phố rao giảng Tin Mừng, Ngài dặn các môn đệ nếu thành phố nào không đón tiếp các ông thì hãy ra khỏi thành đó, giũ bụi dép, và Ngài nói rằng trong ngày Nước Thiên Chúa đến, thành phố đó sẽ bị phạt còn nặng hơn thành Sôđom (Lc 10, 10–12; Mt 10, 14–15). Ở đây, Chúa Giêsu dường như liên kết Sôđom với tội không hiếu khách. Tuy nhiên, hai đoạn 2 Pr 2, 4–10 và Giuđa 7 đúng là giải thích câu chuyện của Sôđom nghiêng về tội tình dục. Vậy, có thể kết luận rằng khó thuyết phục khi kết luận tội của Sôđom là tội phạm hành vi đồng tính; tuy nhiên, cũng không có gì vô lý khi kể rằng một trong các tội của Sôđom là có hành vi đồng tính.
Vài đoạn Cựu ước rõ ràng kết án hành vi đồng tính: Lv 18, 22, “Ngươi không được ăn nằm với đàn ông như đàn bà, đó là điều ghê tởm.” Lv 20, 13 “Khi người đàn ông nào nằm với người đàn ông như nằm với người đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm, chúng phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng.” Tác giả thánh loại trừ khỏi Dân của Thiên Chúa những ai hành xử theo đồng tính luyến ái.
Dựa vào giải thích của Martin Noth,16 Genovesi gợi ý rằng cần xem xét đoạn văn trên trong bối cảnh chung của toàn bản văn, đó là các quy luật về sự thánh thiện, trong đó có cả cấm đoán “Ngươi không được đến gần một người đàn bà đang bị ô uế vì kinh nguyệt, để lột trần chỗ kín của nó” (Lv 18,19), và nếu hai vợ chồng quan hệ thân xác vào lúc người vợ đang có kinh nguyệt thì cũng bị “khai trừ khỏi dân chúng” (Lv 20,18). Genovesi lý luận rằng vì rõ ràng điều kết án trong Lv 18,19 và Lv 20,18 là không đúng với hiểu biết hiện nay, nên giá trị của đoạn kết án hành vi đồng tính cũng phải xem xét lại.
Tuy nhiên, chúng ta thấy dù có bị ảnh hưởng văn hóa, nhưng lại có sự thống nhất, hằng định vững bền trong Kinh Thánh, Tân ước nối tiếp Cựu ước, cùng kết án hành vi đồng tính, như Bộ Giáo lý Đức tin đã khẳng định:
“Thật đúng là văn chương Kinh Thánh phụ thuộc vào các thời kỳ khác nhau... Giáo Hội ngày nay rao giảng Tin Mừng cho một thế giới vốn khác nhau về nhiều phương diện so với ngày xưa...
Điều nên chú ý là, trong sự hiện diện của sự đa dạng đáng kể như thế, nhưng lại có một sự hằng định rõ ràng trong chính Kinh Thánh về vấn đề luân lý của hành vi đồng tính. Giáo thuyết của Giáo Hội về vấn đề này vì vậy không phải dựa trên vài câu rời rạc dùng cho sự lý luận thần học dễ dàng, nhưng trên nền tảng vững chắc của một bằng chứng Kinh Thánh hằng định. Cộng đoàn đức tin ngày nay, trong sự kế tục không đứt đoạn với các cộng đoàn Do Thái và Kitô hữu mà bên trong đó Kinh Thánh cổ xưa đã được biên soạn, tiếp tục được nuôi dưỡng bởi cùng Kinh Thánh và bởi Thần Khí Chân Lý mà Kinh Thánh là Lời của Thần Khí đó. Một cách chính yếu, cần nhìn nhận rằng Kinh Thánh không được hiểu một cách chính xác khi chúng được giải thích theo một cách thức đối nghịch với Truyền Thống sống động của Giáo Hội. Một cách đúng đắn, việc giải thích Kinh Thánh phải hòa hợp một cách căn bản với Truyền Thống đó.” 17
Thật vậy, sách Sáng Thế từ xa xưa tuyên bố rõ ràng rằng Thiên Chúa đã dựng nên con người là nam và nữ: “Vì thế người nam lìa bỏ cha mẹ mình để kết hợp với vợ mình và cả hai trở thành một thịt” (St 2, 24). Trong chương 19 Tin Mừng Matthêu, Chúa Giêsu trích dẫn đoạn này và nói từ khởi đầu nó đã như thế rồi.
Bô Giáo lý Đức tin cũng giải thích:
“Dựa trên nền tảng của sự trình bày luật thần quyền, một quan điểm cánh chung đã được thánh Phaolô khai triển trong 1 Cr 6, 9 khi ngài đề nghị cùng một giáo thuyết và liệt kê những ai hành xử theo đồng tính luyến ái vào số các người sẽ không được vào Nước Thiên Chúa.
Đoạn Rm 1, 18–32, vẫn xây dựng trên các truyền thống luân lý của các vị tiền bối, nhưng trong bối cảnh mới của sự chạm trán giữa Kitô giáo và xã hội ngoại giáo thời của ngài, thánh Phaolô sử dụng hành vi đồng tính luyến ái như một thí dụ của sự mù quáng đã chinh phục con người. Thay vì sự hòa hợp nguyên thủy giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo, sự méo mó gay gắt của thờ ngẫu tượng đã dẫn đến mọi loại quá trớn luân lý. Thánh Phaolô không tìm thấy một thí dụ nào rõ ràng hơn về sự bất hòa hợp này là các quan hệ đồng tính luyến ái. Cuối cùng, 1 Tm 1, hoàn toàn tiếp nối với lập trường Kinh Thánh, tách những kẻ đã loan truyền giáo thuyết sai lạc và trong câu 10, minh nhiên gọi những ai làm hành vi đồng tính luyến ái là kẻ tội lỗi.”18
2. HUẤN QUYỀN HIỆN NAY
Trên phương diện thần học luân lý, không thích hợp để gắn nhãn hiệu một người là đồng tính luyến ái, ngay cả khi họ có khuynh hướng này. Bởi vì, điều cơ bản hơn là nhân vị nơi mỗi người này. Thật vậy, chính Giáo Hội cũng không xem mỗi người là khác phái tính luyến ái hay đồng tính luyến ái và nhấn mạnh rằng mỗi con người có căn tính cơ bản: đó là tạo thành của Thiên Chúa, và bởi ân sủng, trở thành con cái của Thiên Chúa và thừa hưởng sự sống vĩnh cửu.
Lập trường truyền thống và hiện thời của Giáo Hội Công giáo Rôma có thể tóm tắt như sau: Giáo hội Công giáo truyền thống cho đến nay lên án hành vi đồng tính luyến ái vì nó trái với luật tự nhiên. Hành vi đồng tính luyến ái không được chấp nhận trong mọi hoàn cảnh. Đồng tính luyến ái phá vỡ cấu trúc truyền thống của gia đình, là căn bản tốt lành của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển. Con người sinh ra là nam và nữ theo hình ảnh của Thiên Chúa trong kế hoạch quan phòng của Ngài. Hôn nhân là bối cảnh tự nhiên và mẫu mực cho các diễn tả tình dục (x. Rm 1,26–27). Thực tế hôn nhân đồng tính phá vỡ cấu trúc gia đình truyền thống vốn là căn bản tốt lành xây dựng xã hội và nuôi dưỡng con người (x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo số 2357, 2387).
V. QUYỀN CÔNG DÂN VÀ VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH LUẬT PHÁP VỀ HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH
Người đồng tính được hưởng đầy đủ quyền công dân. Cho đến nay hôn nhân đồng tính được hợp pháp hóa trên 14 quốc gia: Hà Lan (2001), Bỉ (2003), Tây Ban Nha (2005), Canada (2005), Nam Phi (2006), Na Uy (2008), Thụy Điển (2009), Bồ Đào Nha (2010), Iceland (2010), Argentina (2010), Đan Mạch (2012), Uruguay (2013), New Zealand (2013), và Pháp (2013).19 Luật pháp các nước này cho phép các người đồng tính luyến ái đầy đủ các quyền lợi hợp pháp, trách nhiệm và sự bảo vệ mà hôn nhân mang lại cho họ. Tại ba nước Hoa Kỳ, Mexico và Brazil, chỉ có một số bang cho phép các cặp đồng tính kết hôn.
Tại Việt Nam, từ tháng 7 năm 2013, dự thảo sửa đổi Luật Hôn nhân và Gia đình liên quan hôn nhân đồng tính trải qua nhiều kỳ họp thảo luận, tham vấn ý kiến. Đã có lúc việc kết hôn của người đồng tính tưởng như được công nhận, tuy nhiên (may thay!) về sau, cánh cửa cho hôn nhân đồng tính vẫn khép lại. Ủy ban Thường vụ Quốc hội hiện tại đề nghị bỏ điều “cấm hôn nhân cùng giới” và chuyển thành “không thừa nhận”.20
Từ quan điểm của Giáo Hội Công giáo về tính không hợp luân lý của hành vi đồng tính, dễ thấy được, Giáo Hội Công giáo vẫn luôn không đồng ý việc kết hôn giữa người đồng tính, tuy tôn trọng phẩm giá của các người đồng tính và kêu gọi đối xử bình đẳng. Có nhiều tài liệu bàn về bản chất hôn nhân Công giáo, trong giới hạn bài viết, tôi không đi sâu về điều này. Chỉ muốn thêm rằng những gì là tự nhiên, thì cũng hiển nhiên. Các lập luận ủng hộ, hay các hợp pháp hoá hôn nhân đồng tính và các phán quyết của các quan toà sẽ không bao giờ khiến cho các hành vi đồng tính hoặc hôn nhân đồng tính trở nên đúng.21
VI. VÀI ĐIỂM NHẤN VỀ MỤC VỤ CHO NGƯỜI ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Với các người mà khuynh hướng đồng tính xuất hiện có tính không bền vững, thì có “trách nhiệm đạo đức” là cố gắng hướng về những tương quan yêu thương với người khác phái.
Với nhiều lý do, (ví dụ để có được sự tôn trọng, để tránh bị chất vấn về khuynh hướng tình dục của họ, bởi vì ước muốn trở thành cha mẹ, bởi vì họ cảm thấy vô nghĩa nếu theo đuổi đời sống độc thân nhưng lại sợ hãi bị kết án vì hành vi đồng tính luyến ái) một số người nam, nữ đồng tính luyến ái đã cố gắng thử các quan hệ khác phái và cả hôn nhân. Ngay cả với ý hướng tốt nhất và nỗ lực tối đa, các người này thường thấy rằng họ không có khả năng thiết lập được một cuộc hôn nhân khác phái thật sự với đầy đủ ý nghĩa chia sẻ và hiệp thông yêu thương vợ chồng. Trong các trường hợp này không có sự hòa hợp hỗ tương lẫn nhau của hai con người, sự nhận định theo đó là không có sự hợp nhất hôn nhân hiệu lực giữa hai người. Thật vậy, vì họ thiếu khả năng cần có là hoàn thành nền tảng của nhu cầu tình cảm yêu thương của một cuộc sống chung của hai người khác phái.
Vấn đề đặt ra là sau thất bại của các cố gắng thiết lập tình yêu với người khác phái, các người đồng tính này có thể có những hành vi tình dục đồng tính mà không “phạm tội”? Nữ thần học gia luân lý Hoa Kỳ, Lisa Cahill gợi ý rằng hôn nhân khác phái là mẫu mực cho hôn nhân Công giáo, nhưng các nhà luân lý tính dục Công giáo nên xem xét “khi nào, tại sao, và như thế nào” thì có thể có vài “ngoại lệ” (exception)? Cahill gợi ý rằng hành vi đồng tính luyến ái như mô tả trên nên được xét là “không mẫu mực nhưng là trường hợp ngoại lệ có thể biện minh một cách khách quan.” Khả năng ngoại lệ này chỉ giới hạn đối với các hành vi đồng tính giữa các người có mối tương quan bền vững và dấn thân yêu thương nhau thật sự.
Điều gợi ý này của Lisa Cahill rõ ràng không được chấp nhận bởi Huấn quyền. Xét trường hợp các người đồng tính dấn thân trong những mối tương quan yêu thương độc nhất, bền vững, Các Giám Mục Công giáo Anh quốc công bố rằng “thật là một sự tương đồng giả tạo và không thể chấp nhận” khi so sánh những tương quan như thế với sự hiệp nhất của hôn nhân khác phái tính. Bất cứ hoạt động tình dục nào xảy ra trong các tương quan đồng tính bền vững vẫn luôn là sai lạc một cách khách quan, nhưng mục tử và người giải tội cần “phân biệt giữa các hành vi tình dục vô trách nhiệm, tùy tiện với các liên kết lâu bền giữa hai người đồng tính, các người cảm thấy không thể kéo dài cuộc sống độc thân mà không có các diễn tả tình dục.” Khi ấy vị mục tử phải lưu ý rằng chăm sóc mục vụ phải xem xét cá nhân trong tình huống hiện tại của anh ấy/chị ấy, với tất cả sức mạnh và yếu đuối của cá nhân ấy.”
Tuy tỏ ra thương cảm các người đồng tính dấn thân trong mối tương quan bền vững và đôi khi có diễn tả bằng hành vi tình dục, Giáo Hội Công giáo vẫn luôn thừa nhận rằng hành vi đồng tính luôn là điều xấu khách quan, Huấn quyền nhấn mạnh rằng các người này phải nhắm đến, và phấn đấu cho việc loại trừ tất cả hành vi tình dục đồng tính trong suốt đời sống.
Các giám mục Công giáo Hoa Kỳ họp tại Baltimore tuyên bố trong một tài liệu chăm sóc người đồng tính năm 1981:“Giống như các người khác phái tính luyến ái, các người đồng tính tiêu biểu cho tình huống trong đó người ấy tìm thấy chính mình, và từ đó khởi điểm cho việc đáp ứng cá nhân đối với tiếng gọi của Đức Kitô đến sự hoàn hảo. Đáp ứng tiếng gọi này không có nghĩa là người ấy bắt buộc phải thay đổi khuynh hướng này. Đúng hơn, tiếng gọi đòi hỏi người ấy phải sống khiết tịnh trong khuynh hướng đó. Sứ vụ của Giáo Hội Công giáo cho các người đồng tính luyến ái, nam và nữ, luôn là một sứ vụ mục vụ. Nó không chỉ đơn thuần lặp lại thách thức Đức Kitô đặt để cho một thế hệ; nó tìm kiếm để làm việc với từng cá nhân, xem xét đến sức mạnh và yếu đuối của từng người, và giúp cá nhân thực hiện trách nhiệm một cách trọn vẹn có thể trong từng tình huống giây phút cuộc sống.”
Các mục tử và người tư vấn phải nhạy cảm đối với các biến động bên trong, có thể là phần kinh nghiệm của những người đồng tính luyến ái. Như các giám mục Anh quốc nói: “Các người đồng tính có thể cảm thấy rằng thiên nhiên trong một cách nào đó đã lừa dối họ và tạo ra những căng thẳng không đáng...họ có thể bị xâu xé khi khám phá rằng...khuynh hướng tình dục nơi họ không phải do lỗi cá nhân mà lại làm phát sinh làn sóng chống đối, chối bỏ trong xã hội...họ có thể cảm thấy rằng Giáo Hội đang đòi hỏi các mẫu mực không thể được.”
Thật ra, ngay cả những người khác phái tính luyến ái mà độc thân, cũng có nhiều lúc cảm thấy đòi hỏi tình dục thân xác, nhưng không vì thế mà họ có thể tìm đến các quan hệ thân xác ngoài hôn nhân. Vậy những người đồng tính luyến ái cũng được mời gọi vượt thắng nhu cầu tình dục thân xác bằng các biện pháp tâm lý và thiêng liêng như cầu nguyện, tăng cường đời sống trí thức và siêu nhiên, mở rộng hoạt động bác ái phục vụ tha nhân, người bệnh tật nghèo khổ...
Một số điểm thông tin cần thiết, theo linh mục Vincent Genovesi, SJ:
– Thiếu chính xác khi cho rằng phần lớn những người đồng tính là bị hấp dẫn thể lý với trẻ em và ước muốn quan hệ tình dục với đối tượng này.
– Đừng nghĩ một cách đương nhiên là tâm lý các người có khuynh hướng đồng tính là không ổn định hay người ấy dâm dục.
– Không chính xác khi nói rằng các người đồng tính đơn giản chỉ cần sức mạnh của ý chí để có thể tái định hướng các quan tâm tình dục của họ. Thật vậy, không có con đường dễ dàng để tái định hướng tình dục hiệu quả, và do đó các người đồng tính luyến ái không nên bị chỉ trích một cách quá đương nhiên nếu họ ngần ngại về việc tái thích ứng tình dục qua trị liệu.
– Không đúng khi khẳng định rằng những người đồng tính có tỉ lệ rối loạn tâm thần cao.
– Không chính xác khi giả định rằng những người khuynh hướng đồng tính giới hạn chỉ trong một số tầng lớp xã hội hay nghề nghiệp nào đó.
Các giám mục Hoa Kỳ khuyên các mục tử và các vị giải tội tránh cả hai thái độ khắc nghiệt và buông thả, khi tư vấn các người có hành vi đồng tính. Cần lưu ý không nên nói với các người đồng tính rằng họ không chịu trách nhiệm cho hành động của họ, các giám mục tuy nhiên cũng quan sát trong trong phần lớn trường hợp các người đồng tính không có hoàn toàn tự do của ý chí, điều này chỉ ra rằng có sự giảm nhẹ trách nhiệm luân lý cho các hành vi tình dục đồng tính của họ. Các người có khuynh hướng đồng tính nên được động viên đào sâu đời sống thiêng liêng. Cùng lúc họ nên được giúp để ý thức rằng cho dù dùng biện pháp nào để bắt đầu một nếp sống mới, “rất có thể sẽ có tái phạm bởi vì thói quen lâu dài, nhưng điều này không được cho phép để trở thành một dịp cho sự tự ti vô ích.”
VII. ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI VÀ ƠN GỌI TU TRÌ, LINH MỤC
Bộ Giáo dục Công giáo năm 2005 ra Chỉ thị “Về các tiêu chuẩn để nhận định ơn gọi đối với các người có khuynh hướng đồng tính luyến ái, trong việc thâu nhận vào chủng viện và chức thánh,” nói rằng các thanh niên thực hành hành vi đồng tính luyến ái, hay có khuynh hướng đồng tính vững bền, không được thâu nhận vào các chủng viện, cũng được áp dụng cho các dòng tu. Đức giáo hoàng Benedictô XVI chấp thuận hướng dẫn này và cho phép ấn hành ngày 31 tháng 8, năm 2005.22
Theo CWNews 3.11.2008, tại một cuộc họp báo trong đó ban hành các nguyên tắc chỉ đạo về việc dùng Tâm lý học trong việc tiếp nhận và đào tạo các ứng sinh cho chức linh mục của Bộ Giáo dục Công giáo, Đức hồng y Zenon Grocholewski, Tổng Trưởng, đã tái khẳng định rằng các người có khuynh hướng đồng tính vững bền, dù không thực hành hành vi tình dục đồng tính cũng không thể được truyền chức linh mục. Ngài nói: “Không nhất thiết ứng sinh nầy phải thực hành tình dục đồng tính mới bị loại khỏi việc truyền chức, mà ngay cả khi không phạm tội, nhưng có khuynh hướng sâu sắc, thì cũng không được chấp nhận cho thừa tác vụ linh mục chính là vì tự bản chất chức linh mục nói lên một tình phụ tử thiêng liêng. Ở đây chúng ta không nói người ấy có phạm tội hay không, mà khuynh hướng ăn rễ sâu nầy vẫn còn hay không.” Giáo Hội Công giáo, tuy đồng cảm với các người có khuynh hướng đồng tính vững bền, vẫn luôn khẳng định đồng tính luyến ái là một kiểu lệch lạc nào đó, trái với tự nhiên, và không tương hợp với việc thực thi chức linh mục, trong việc thiết lập quan hệ với tha nhân.23
Bài viết tiếp tục với đề tài chuyển giới tính, mà trong cuộc sống, đôi khi lẫn lộn với đồng tính luyến ái, hay lưỡng tính.
CHUYỂN GIỚI TÍNH
Vấn đề chuyển giới tính mới chỉ nổi cộm tại Việt Nam khoảng thập kỷ nay. Chưa có nhiều nghiên cứu sâu xa nghiêm túc về vấn đề này. Một cách khiêm tốn, bài viết đề cập trên phương diện lý thuyết ít ỏi biết được.
Như trên đã định nghĩa, theo y học, chuyển giới là trường hợp một người hoàn toàn là người nam về mặt sinh học – nghĩa là bộ nhiễm sắc thể 46XY, có bộ phận sinh dục nam hoàn chỉnh – gồm tinh hoàn, thừng tinh, ống dẫn tinh, tuyến tiền liệt, dương vật, giọng nói trầm, không có bầu ngực, không tuyến sữa..., nhưng lại cảm nhận mình là người nữ, khát khao là người nữ nên muốn chuyển đổi giới tính thành người nữ; hoặc ngược lại, một người nữ mang bộ nhiễm sắc thể 46 XX, có bộ phận sinh dục nữ hoàn chỉnh, có buồng trứng, tử cung, vòi trứng, âm đạo, hàng tháng có kinh nguyệt, có vú phát triển, có tuyến sữa nhưng vẫn cứ cảm nhận mình là nam và muốn trở thành người nam!24 Khát khao này đôi lúc rất mãnh liệt khiến người ấy thậm chí không muốn sống nếu không được chuyển giới.25
Tại Việt Nam, một số người chuyển giới được biết đến như chuyên gia trang điểm Cindy Thái Tài, ca sĩ Cát Tuyền, ca sĩ Lâm Chí Khanh, Hương Giang idol, cô giáo Phạm Lê Quỳnh Trâm, nhà thiết kế Franky Nguyễn...
I. TIẾN TRÌNH Y HỌC ĐỂ CHUYỂN GIỚI
Việc chuyển đổi giới tính là cả một quá trình lâu dài và phức tạp. Có thể tóm tắt như sau:
– Khám lâm sàng, làm tất cả các xét nghiệm cần thiết. Tiến hành tư vấn tâm lý.
– Dùng thuốc nội tiết liên tục trong một thời gian nhằm giúp một số bộ phận cơ thể họ thay đổi. Ở nam giới – muốn thành nữ giới – sự thay đổi ấy là lông, râu giảm bớt, giọng nói trở nên trong trẻo, các cơ bắp tay, chân nhỏ lại nhưng vú, mông thì to ra, tinh hoàn teo nhỏ. Ở nữ giới – muốn thành nam giới– cơ bắp to ra, giọng nói trở nên trầm, kinh nguyệt hết, lông, râu mọc nhiều hơn. Thuốc nội tiết có một số tác dụng phụ của việc phải sử dụng, như chóng mặt, cao huyết áp, thay đổi tính tình, tăng cân, trầm cảm...”.
– Phẫu thuật. Sau điều trị bằng thuốc nội tiết, một số bộ phận trong cơ thể đã thay đổi hết mức, người chuyển giới sẽ được làm phẫu thuật, bao gồm cắt bỏ cơ quan sinh dục trong, phẫu thuật bộ phận sinh dục ngoài để tạo hình bộ phận sinh dục mới, nâng ngực cho to lên (nếu muốn thành đàn bà) hoặc thu nhỏ bộ ngực (nếu muốn là đàn ông). Phải trải qua vài lần phẫu thuật mới có thể hoàn chỉnh. 26
– Về việc phẫu thuật, một số bác sĩ cho rằng cuộc giải phẫu sẽ đem lại hậu quả tích cực cho tâm lý của đương sự. Nhưng sâu xa, vẫn là một sự thay đổi giả tạo và vì thế đương sự vẫn không cảm thấy thanh thản bình an. Do đó, một cách khách quan giải phẫu không phải là thần dược như một số người nghĩ. 27
– Sau khi làm xong, cả đàn ông lẫn đàn bà đều không còn khả năng sinh đẻ. Hơn nữa, phải sử dụng thuốc nội tiết – hầu như suốt đời nên ắt hẳn ảnh hưởng đến sức khỏe như sốc thuốc, tai biến nghẽn mạch, giảm tuổi thọ...
– Theo một vài báo cáo, chi phí tốn cho các ca giải phẫu chuyển giới ở nước ngoài khoảng 10.000 – 12.000 USD, mức thấp hơn là 4.000 – 6.000 USD. Thêm vào đó, chi phí chích nội tiết tố từ 120.000– 200.000 đồng/2 ống/tuần. Một số người chuyển giới tự mua và chích nội tiết tố, không có sự tư vấn của chuyên gia y tế đã dẫn đến những hệ lụy khó lường.
Bên cạnh đó, người chuyển giới còn cần được theo dõi, nâng đỡ trong nhiều năm về mặt thể trạng, tâm lý và quá trình hội nhập cộng đồng. Theo Nghị định 88 và Thông tư số 29 của Nhà nước Việt Nam về xác định lại giới tính thì chỉ những bệnh viện có đủ điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, đặc biệt là nhân lực – đội ngũ chuyên gia về các lĩnh vực liên quan đến xác định lại giới tính, phải được Bộ Y tế hoặc Sở Y tế cho phép thì mới được xác định lại giới tính. Trong Nghị định 88 cũng giải thích rõ về trường hợp được phẫu thuật xác định lại giới tính: 1/lưỡng tính thật; 2/ Lưỡng tính giả hay các bệnh lý loạn tuyến sinh dục làm cho bộ phận sinh dục ngoài không rõ ràng.28
Hiện Việt Nam chưa cho phép hợp thức hóa giới tính mới ở những người vốn bình thường mà chuyển giới, dù họ đã nhờ kỹ thuật tạo hình tạo cho mình một cơ thể hoàn toàn mới. Như thế, người chuyển giới gần như bị mất quyền nhân thân khi vì giới tính trong giấy tờ khác với giới tính hiện có và ngoại hình của họ. Chính điều ấy đã khiến những người đã chuyển giới lâm vào cảnh “mình chẳng phải mình”. Cô giáo Quỳnh Trâm là một thí dụ, cơ sở địa phương chấp nhận cho cô đổi giấy tờ nhân thân từ “nam” sang “nữ”, nhưng sau đó quyết định này bị chính quyền cấp cao hơn bác bỏ.29
II. QUAN ĐIỂM CÔNG GIÁO
Phần này, tôi trình bày lại theo vài suy tư của nhà thần học luân lý Xavier Thévenot, mà tôi thấy thích đáng.
1. Phải nhìn nhận ước muốn chuyển giới tính chưa phải là một điều xấu luân lý (vì chính đương sự không chọn lựa cho mình ước muốn này), nhưng như một khiếm khuyết khách quan rất nghiêm trọng làm đảo lộn cuộc sống đương sự cách sâu xa và lâu dài. Thực tế, người muốn chuyển giới và người chuyển giới gặp nhiều thách thức trong cuộc sống: sự lên án, ghét bỏ, thậm chí tấy chay, xa lánh của gia đình bạn bè, xã hội, khó khăn tìm việc làm, sức khỏe giảm sút...Tuy nhiên, những người này vẫn có khả năng đảm nhận trách nhiệm về bản thân mình. Chúng ta cần khuyến khích nâng đỡ họ sống thử thách ấy cách tích cực. Chúng ta có thể đồng hành về mặt tâm lý, giúp tìm công việc thích hợp và ổn định, tìm bạn bè tốt, thấu hiểu, lắng nghe...
2. Huấn quyền dường như chưa lên tiếng rõ ràng về việc giải phẫu chuyển giới. Nhưng dựa trên truyền thống luân lý, ta có thể nhận định rằng Huấn quyền dứt khoát bác bỏ việc giải phẫu này. Giáo hội Công giáo luôn khẳng định con người không phải “làm chủ” thân xác mình, mà là người đón nhận ơn ban Thiên Chúa, là nam, là nữ, và phải sống hòa hợp với quy luật tự nhiên ở nơi chính thân xác của mình. Con người không thể tự do thay đổi giới tính của mình chỉ vì mình “khát khao” được là giới tính ngược lại với giới tính mình khi sinh ra.
Đoạn trích trong huấn từ của Đức Piô XII với các bác sĩ ngày 13.9.1952 có thể làm sáng tỏ điều này: “Bệnh nhân không phải là chủ nhân trên hết của mình, cả thân xác lẫn tinh thần. Vì thế, bệnh nhân không thể sử dụng mình một cách tùy tiện như mình muốn. Ngay cả lý do khiến bệnh nhân làm thế tự nó cũng không đủ và không thuyết phục. Bệnh nhân bị ràng buộc vào cứu cánh nội tại mà bản tính đã định. Bệnh nhân có quyền sử dụng– dù bị giới hạn bởi cứu cánh tự nhiên– các khả năng và sức lực của bản tính con người. Vì chỉ là người thừa hưởng chứ không phải là sở hữu chủ, nên bệnh nhân không có quyền vô hạn để làm những việc như hủy diệt hay cắt bỏ vì lý do chức năng”.
Trích đoạn trên, cách nay 62 năm, không trực tiếp đề cập đến việc cắt bỏ bộ phận sinh dục, cũng như việc chích nội tiết tố để chuyển giới. Tuy nhiên, ta có thể ngoại suy và áp dụng cho việc giải phẫu chuyển giới. Việc giải phẫu chuyển giới là một sự xấu khách quan nghiêm trọng, vì nó cắt bỏ vĩnh viễn các bộ phận căn bản và lành mạnh của con người.
Tuy nhiên, mỗi người là một mầu nhiệm. Chúng ta cần tự hỏi: “Ta đã thật sự lắng nghe bệnh nhân một cách kiên trì để tìm ra ước muốn sâu xa của họ chưa?”; “Bệnh nhân đã được thông tin đầy đủ rõ ràng hậu quả của việc giải phẫu và việc dùng thuốc nội tiết tố chưa?” Gia đình của đương sự cũng cần được giúp đỡ để có thể thông cảm, nâng đỡ yêu thương đương sự đang cơn khủng hoảng tâm lý, tránh thái độ kết án, xa lánh.30

KẾT
Người đồng tính luyến ái hay người ước muốn chuyển giới, cần có những anh chị em trên đường lữ thứ trần gian của họ. Chúng ta phải là chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa, đón tiếp họ, và can đảm, khôn ngoan, thận trọng nói cho họ biết đòi hỏi của tình yêu Thiên Chúa, nhắc cho họ mục đích tối hậu của đời người là quê Trời. Mặt khác, có lẽ những người này cũng muốn chúng ta phải nhìn nhận họ là những anh chị em có thể làm chứng cho nhân loại về Thiên Chúa: Một Thiên Chúa đã dựng nên con người có nam, có nữ và biết rõ thân phận bụi đất của ta.31 

1  Tác giả chân thành cáo lỗi rằng do vài lý do khách quan, một vài tư tưởng của vài tác giả được sử dụng, nhưng tham chiếu trong bài viết này còn thiếu sót.
2  Xavier Thévenot, Repères étiques pour un monde nouveau, 1991, Bản dịch Việt ngữ “Để xây dựng một nền luân lý cho thế giới mới”, của Đặng Xuân Thành, (Nhà Xuất bản Tôn Giáo, 2008), 5.
3  Nguyệt Phương, “Úc công nhận giới tính thứ ba”, <http://tuoitre.vn/The–gioi/601086/uc–cong–nhan–gioi–tinh–thu–ba.html>
4  Thiên Chương, “Những ngộ nhận thường gặp về người đồng tính”, <http://vnexpress.net/gl/doi–song/2007/12/3b9fd8af/>
5  James Harrison, “The Dynamics of Sexual Anxiety,” Christianity and Crisis 37 (1977), 136–40, tại tr 137, trích dẫn trong Vincent J. Genovesi, In Pursuit of Love: Catholic Morality and Human Sexuality, 2nd ed. (Philippines, 2003), 250.
6  Năm 1981, Ủy Ban Công Ích Xã Hội Công giáo, một ủy ban làm việc của các giám mục Công giáo tại Anh và Wales, đã chuẩn bị một tài liệu mang tên “Giới thiệu về Chăm Sóc Mục vụ cho các người đồng tính.” Trích dẫn ở đây từ trang 10–11, và được trích trong Vincent J. Genovesi, In Pursuit of Love, 252.
7  Vincent J. Genovesi, In Pursuit of Love, 249–253.
8  Judd Marmon, ed. Sexual Inversion (New York, Basic Books, 1965) , 4, được trích trong Genosevi,  253.
9  William F. Kraft, “Homosexuality and Religious Life,” Review for Religious 40 (1981), 371, được trích trong Genovesi, 253.
10       Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, “Các Nguyên tắc Hướng Dẫn các vị Giải Tội trong vấn đề Đồng Tính Luyến ái,” (Washington: United States Catholic Conference, 1973), 5.
11       Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, “To Live in Christ Jesus: A Pastoral Reflection on the Moral Life” (Washington: United States Catholic Conference, 1976), 19.
12       Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, “Human Sexuality: A Catholic Perspective for Education and Lifelong Learning,” (Washington: United States Catholic Conference, 1991) 55.
13       Marvel Deutsch, MM, “Hôn nhân đồng tính có phản tự nhiên không?” < http://www.daminhvn.net/than–hoc/2612–hon–nhan– dong–tinh–co–phan–tu–nhien–khong.html>
14       Độc giả có thể xem thêm hai tài liệu của Bộ Giáo lý Đức tin “Tuyên Ngôn về một số Vấn đề Liên quan đến Đạo Đức Tính Dục,” 1975 và “Thư Gửi Các Giám Mục Giáo Hội Công giáo về Chăm Sóc Mục Vụ cho các người Đồng Tính Luyến Ái”, 1986.
15       Vincent J. Genovesi, In Pursuit of Love, 268–270.
16       Martin Noth, Leviticus: A Commentary (London, 1965), 16, được trích dẫn trong Genovesi, 273.
17       Bộ Giáo lý Đức tin, “Thư Gửi Các Giám Mục Giáo Hội Công giáo về Chăm Sóc Mục Vụ cho các người Đồng Tính Luyến Ái,” (1986) , số  5.
18       Bộ Giáo lý Đức tin, “Thư Gửi Các Giám Mục Giáo Hội Công giáo về Chăm Sóc Mục Vụ cho các người Đồng Tính Luyến Ái,” (1986) , số  6.
19       Phúc Duy, “Những nước hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính” <http://www.thanhnien.com.vn/the–gioi/nhung–nuoc–hop–phap– hoa–hon–nhan–dong–tinh–31656.html>  (theo AFP )
20       Kenny Nguyễn “Người đồng tính hiểu lầm tin được phép cưới” < http://ngoisao.net/tin–tuc/thoi–cuoc/24h/nguoi–dong–tinh– hieu–lam–tin–duoc–phep–cuoi–2909748.html>
21       Marvel Deutsch, MM, “Hôn nhân đồng tính có phản tự nhiên không?”
22       Bộ Giáo dục Công giáo, “Instruction: Concerning the Criteria for the Discernment of Vocations with regard to Persons with Homosexual Tendencies in view of their Admission to the Seminary and to Holy Orders,” <http://www.vatican.va/roman_ curia/congregations/ccatheduc/documents/rc_con_ccatheduc_ doc_20051104_istruzione_en.html>
23       Bản Tin Giáo Hội số 108 năm III tuần từ 11–18.11.2008.
24       “Chuyển đổi giới tính: Không thể một sớm một chiều”, < http://vn.news.yahoo.com/chuy–n–gi–t–nh–kh–ng–th–012943483.html>
25       Phan Dương, “Ước phẫu thuật chuyển giới để được sống 1 giờ là mình”, < http://vn.news.yahoo.com/ước–phẫu–thuật–chuyển– giới–để–sống–được–011300911.html>
26       “Chuyển đổi giới tính: Không thể một sớm một chiều”, <http://vn.news.yahoo.com/chuy–n–gi–t–nh–kh–ng–th–012943483.html>
27       Xavier Thévenot, “Để xây dựng một nền luân lý cho thế giới mới”, 142.
28       Phan Dương, “Thẩm định giới tính cô giáo Quỳnh Trâm, Bộ Y tế nói gì?”, <http://vn.news.yahoo.com/th%E1%BA%A9m–%C4%91%E1%BB%8Bnh–gi%E1%BB%9Bi–t%C3%ADnh–c%C3%B4–gi%C3%A1o–qu%E1%BB%B3nh–tr%C3%A2m–004546216.html>
29       Bùi Liêm, “Không đủ cơ sở pháp lý xác định cho anh thành ‘chị’” <http://tuoitre.vn/Chinh–tri–xa–hoi/Phap–luat/518906/Khong– du–co–so–phap–ly–xac–dinh–cho–anh–thanh–“chi”.html>
30       Xavier Thévenot, “Để xây dựng một nền luân lý cho thế giới mới”, 141–144.
31       Xavier Thévenot, “Để xây dựng một nền luân lý cho thế giới mới”, 138.
Nguồn: 
 Bản tin Hiệp Thông (HĐGMVN) số 87

CON CẦN CHÚA

  Một cậu bé đang đùa nghịch với đống cát trên sân. Nhìn thấy một tảng đá lớn choán chỗ phía trước, cậu liền tìm cách đẩy tảng đá đi chỗ kh...